Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 22/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ KIỆN LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

 Ngày 26/4/2021 tại phòng xử án, Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên toà xét xử công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 403/2020/TLST-HNGĐ ngày 03/12/2020 về việc “Kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con chung”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2021/QĐST-HNGĐ ngày 16/3/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 04/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05/4/2021, giữa:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết L, sinh năm: 1988. Có mặt. Nơi cư trú: Thôn 4, xã R, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.

Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1990. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Nơi cư trú: Thôn 4, xã R, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Tuyết L là nguyên đơn trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tuyết L và anh Phạm Văn T về sống chung với nhau từ năm 2012, đăng ký kết hôn tại UBND xã R, huyện E, tỉnh Đăk Lăk, kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, sau khi về sống chung được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T chơi bời và nghiện ma túy, chị L khuyên can thì xảy ra nhiều cuộc cãi vã làm mất tình cảm vợ chồng, hiện chị L và anh T đã sống ly thân với nhau, hiện cuộc sống không thể kéo dài được nữa, nay chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị L và anh T có 01 con chung là Phạm Nguyễn Trí D, sinh ngày 05/02/2013. Nay ly hôn chị L có nguyện vọng xin được nuôi con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Hiện tại chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và nợ chung: Chị L không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung.

Quá trình điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ anh Phạm Văn T là bị đơn: Cố tình lẩn tránh, không hợp tác nên không ghi nhận được ý kiến của anh T và anh T cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào có liên quan đến vụ án cũng như không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị L.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng trình tự theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của đương sự có trong hồ sơ vụ án thể hiện việc chị L khởi kiện yêu cầu ly hôn là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình. Cho chị L ly hôn với anh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Pháp luật về tố tụng: Việc chị Nguyễn Thị Tuyết L khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Phạm Văn T, Toà án thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập các đương sự đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi anh T cư trú. Theo quy định tại khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải được và tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Pháp luật về nội dung:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tuyết L và anh Phạm Văn T về sống chung với nhau từ năm 2012, đăng ký kết hôn tại UBND xã R, huyện E, tỉnh Đăk Lăk, theo giấy chứng nhận kết hôn số 44 ngày 11/5/2012. Năm 2014 chị L phát hiện anh T nghiện ma túy, chị L khuyên can thì xảy ra mâu thuẫn cãi vã làm mất tình cảm vợ chồng, năm 2019 thì hai người sống ly thân, hiện cuộc sống không thể kéo dài được nữa, nay chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T.

Căn cứ vào lời khai của đương sự và qua xác minh tại chính quyền địa phương thì chị L và anh T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, hiện tại hai người đã sống ly thân. Do đó, xét thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh T ngày càng trầm trọng, giữa hai người không còn thương yêu, chăm sóc, quý trọng lẫn nhau, thực tế hôn nhân không còn tồn tại. Vì vậy, việc chị L yêu cầu ly hôn với anh T là có căn cứ, nên cần chấp nhận.

Về con chung: Chị L và anh T có 01 con chung, sau khi sống ly thân chị L là người trực tiếp nuôi con và anh T là người nghiện ma túy, nên cần tiếp tục giao con chung Phạm Nguyễn Trí D, sinh ngày 05/02/2013 cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, nên không đề cập giải quyết.

Anh T có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và nợ chung: Chị L không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung, nên không đề cập xem xét.

[3]. Về án phí: Chị L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Tuyết L được ly hôn với anh Phạm Văn T.

2. Về nuôi con chung: Căn cứ vào Điều 58; Điều 81; Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình;

2.1. Giao con chung là Phạm Nguyễn Trí D, sinh ngày 05/02/2013 cho chị Nguyễn Thị Tuyết L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, nên không đề cập giải quyết.

Anh T có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản và nợ chung: Chị L không yêu cầu giải quyết về tài sản và nợ chung, nên không đề cập giải quyết.

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 3 Điều 144; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 5 Điều 19; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTUQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án;

Chị Nguyễn Thị Tuyết L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo theo biên lai số AA/2019/0012294 ngày 26/11/2020.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 22/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:22/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về