TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q TỈNH Q
BẢN ÁN 22/2020/HSST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 25 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Q - Tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2020/HS-ST ngày 20/4/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2020/QĐXXST- HS ngày 14/5/2020 đối với bị cáo:
VŨ ĐẮC TR Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 22/01/1973, tại thị xã Q, tỉnh Q. Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Khu 7, phường N, thị xã Q, tỉnh Q. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Họ và tên bố: Vũ Đắc V, sinh năm 1945; họ và tên mẹ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1950. Gia đình bị cáo có 05 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Vợ: Nguyễn Thị O, sinh năm 1977. Có ba con, con lớn sinh năm 1998; con nhỏ sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: Chưa. Nhân thân: Ngày 27/6/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Q xử phạt 06 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”, đặc xá ngày 01/9/2009. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 09/02/2020, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt tại phiên tòa.
Người chứng kiến: Chị Sơn Thị Bé L1, sinh năm 2001. Nơi ĐKHKTT: Ấp Tr, xã T, huyện Th, tỉnh S. Vắng mặt tại phiên tòa.
Bà Vũ Thị Th, sinh năm 1964. Nơi ở: Khu 7, phường N, thị xã Q, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên tòa.
Ông Vũ Văn Đ, sinh năm 1962 Nơi ở: Khu 7, phường N, thị xã Q, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên tòa.
Ông Ngô Đình Q, sinh năm 1964. Nơi ở: Thôn C, xã L, thị xã Q, tỉnh Q. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 09/02/2020, Công an thị xã Q kiểm tra hành chính nhà Vũ Đắc Tr tại khu 7, phường N đã phát hiện thu trong túi quần phía trước bên phải của Trí đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long trong có 02 túi ni - lon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng và được niêm phong theo quy định. Việc bắt giữ Trí có sự chứng kiến của chị Sơn Thị Bé L1, chị Vũ Thị Th và anh Vũ Văn Đ, anh Ngô Đình Q.
Tại Bản kết luận giám định số 139/GĐMT ngày 12/02/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q đã kết luận: Chất tinh thể màu trắng ký hiệu (M1, M2) ghi thu của Vũ Đắc Tr là ma túy, loại Methaphetamine, có tổng khối lượng 2,43g ( Hai phẩy bốn ba gam). Sau giám định hoàn lại M1 là 2,28 gr, M2 là 0,02 g theo niêm phong số 139/GĐMT. Quá trình điều tra, Vũ Đắc Tr khai nhận bản thân sử dụng ma túy loại “đá” từ đầu năm 2019, bằng hình thức dùng ống hút khói vào cơ thể. Số ma túy bị thu giữ do Trí mua từ ngày 08/02/2020 của một người đàn ông không quen biết ở khu vực bến phà Rừng - Quảng Yên, giá 300.000 đ/ túi, mục đích để sử dụng. Tại thời điểm kiểm tra, trong nhà Vũ Đắc Tr có 2 người bạn ( Tên là Sơn Thị Bé L1 - Trú tại thôn Tr, xã T, huyện Th, tỉnh S và ông Ngô Đình Q- Trú tại thôn C, xã L, thị xã Q, tỉnh Q ).
Tại bản Cáo trạng số: 29/CT -VKS-QY ngày 16/4/2020 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã truy tố bị cáo Vũ Đắc Tr về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thị xã Q vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo theo nội dung Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Từ 24 thàng tù đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 09/02/2020 Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 139/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q bên trong có chứa chất ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định ngày 12/02/2020 ( Ký hiệu M1: 2,28 gam; M2: 0,02 gam).
Về hình phạt bổ sung (Phạt tiền): Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo. Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Đắc Tr khai nhận: Ngày 09/02/2020, bị cáo cất giữ trong người 02 túi ni-lon có chứa ma túy đá thì bị Công an kiểm tra bắt giữ tại nhà. Nguồn gốc số ma túy này bị cáo mua của một người đàn ông không quen ở khu vực bến phà Rừng - Quảng Yên với giá 300.000 đ/ túi, mục đích để sử dụng. Chị Sơn Thị Bé L1 và ông Ngô Đình Q không liên quan gì đến việc bị cáo cất giữ ma túy để sử dụng. Bị cáo không tranh luận và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
* Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó: Các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.
Về hành vi phạm tội:
[1] Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy phù hợp với nội dung bản Cáo trạng. Thể hiện: Bị cáo Vũ Đắc Tr đã sử dụng ma túy từ năm 2019. Ngày 09/02/2020, bị cáo cất giữ trong người 02 túi ni-lon có chứa ma túy đá thì bị Công an kiểm tra bắt giữ tại nhà. Nguồn gốc số ma túy này bị cáo mua của một người đàn ông không quen ở khu vực bến phà Rừng - Quảng Yên với giá 300.000 đ/ túi, mục đích để sử dụng cho bản thân.
Người chứng kiến chị Sơn Thị Bé L1, ông Ngô Đình Q khai nhận: Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 09/02/2020, chị L1,ông Quảng đang chơi tại nhà Vũ Đắc Tr thì Công an đến kiểm tra hành chính. Công an thu giữ trong túi quần bên phải của Vũ Đắc Tr 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, bên trong có 02 túi ni-lon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng.
Bà Vũ Thị Th và ông Vũ Văn Đ khai: Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 09/02/2020, ông Đạt và bà Thúy được Công an mời chứng kiến việc kiểm tra hành chính tại nhà Vũ Đắc Tr ở khu 7 phường N, thị xã Q. Công an thu giữ trong túi quần bên phải của Vũ Đắc Tr 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, bên trong có 02 túi ni-lon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng. Như vậy lời khai người chứng kiến trong quá trình điều tra phù hợp lời khai bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án. Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận: Khoảng 9 giờ 30 phút tại nhà của Vũ Đắc Tr ở khu 7, phường N, thị xã Q, tỉnh Q, Công an thị xã Q kiểm tra, bắt quả tang Vũ Đắc Tr có hành vi tàng trữ trái phép 2,43 gam ( Hai phẩy bốn ba gam) ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng.
Hành vi nêu trên của bị cáo Vũ Đắc Tr phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
1. “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”
c) “... Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
[2] Hành vi bị cáo gây nên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo mua trái phép chất ma túy đã tiếp tay cho những kẻ buôn ma túy, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế và làm gia tăng các loại tội phạm khác; ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự xã hội. Bị cáo nhận thức được việc vận chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật song do coi thường pháp luật, bị cáo đã có hành vi mua 2,43gam Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo tàng trữ trái phép 2,43 gam Methamphetamine, do đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Về nhân thân bị cáo: Ngày 27/6/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Q xử phạt 06 năm tù về tội “ Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”, được đặc xá ngày 01/9/2009. Bị cáo đã được xóa án nhưng không lấy đó để tự giáo dục bản thân nay lại thực hiện hành vi phạm tội. Cho nên việc đưa bị cáo ra xử lý trước pháp luật là cần thiết, đáp ứng yêu cầu phòng chống các tội phạm ma túy trong tình hình hiện nay. Vì vậy cần có mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi bị cáo gây nên.
[3] Về tình tiết tăng nặng: Không
[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi vi phạm; Mẹ bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến. Nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự để bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, sau trở thành công dân tốt cho xã hội.
[5] Về vật chứng trong vụ án: Lượng ma túy gửi giám định hoàn lại trong 01 phong bì niêm phong số 139/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q bên trong có chứa chất ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định ngày 12/02/2020 ( Ký hiệu M1: 2,28 gam; M2: 0,02 gam) là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Vấn đề khác: Đối với người đàn ông bán ma túy cho Vũ Đắc Tr ở khu vực bến phà Rừng - Quảng Yên, hiện không rõ căn cước, lai lịch nên không đủ cơ sở để xử lý. Đối với chị Sơn Thị Bé L1 và anh Ngô Đình Q có mặt tại nhà Vũ Đắc Tr nhưng không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên không xét.
[7] Về hình phạt bổ sung ( Phạt tiền): Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung( Phạt tiền) đối với bị cáo.
Vì các lẽ trên, 1.Về tội danh và hình phạt:
QUYẾT ĐỊNH
Bị cáo Vũ Đắc Tr phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt Vũ Đắc Tr: 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 09/02/2020.
2. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong số 139/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q bên trong có chứa chất ma túy loại Methamphetamine hoàn lại sau giám định ngày 12/02/2020 (Ký hiệu M1: 2,28 gam; M2: 0,02 gam) theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/42020 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Q - Tỉnh Q.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm, quyền kháng cáo:
Căn cứ khoản 1-2 Điều 135, khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí. Bị cáo Vũ Đắc Tr phải nộp 200.000 đ ( Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Vũ Đắc Tr được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 22/2020/HSST ngày 25/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 22/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Yên - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về