Bản án 22/2020/HS-ST ngày 04/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 22/2020/HS-ST NGÀY 04/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Anh T; Sinh năm 1995, tại Bình Thuận Nơi ĐKHKTT: Khu phố 3, TT. Tân M, huyện Hàm T, tỉnh Bình Thuận Chỗ ở hiện nay: Không cố định Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không:

Trình độ học vấn: 9/12 Con ông Nguyễn Anh T (đã chết) và bà Dương Thị L (đã chết) Vợ, con: Chưa có Tiền án, tiền sự: Không.

Nguyễn Anh T bị bắt tạm giam từ ngày 19/5/2020. Hiện Tú đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an huyện Hàm Tân. Bị cáo có mặt tại phiên tòa * Bị hại: Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1982. (Vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn 4, xã Tân Ph, huyện Hàm T, tỉnh Bình Thuận.

Hiện tạm trú tại : Khu phố 2, thị trấn Tân M, huyện Hàm T, tỉnh Bình Thuận.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan : Ông Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1978 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn 3, xã Tân Đ, huyện Hàm T, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ ngày 09/3/2020, Nguyễn Anh T trong lúc đi bộ ngang nhà bà Nguyễn Thị A thuộc khu phố 2, TT. Tân M thì Tú nảy sinh ý định đột nhập vào nhà bà A để trộm cắp tài sản. Thực hiện ý đồ trên, T lén lút leo tường rào vào trong rồi đi ra phía sau nhà bà A thấy cửa sau chỉ được móc bằng dây kẽm nên T giật mở cửa đi vào trong thì phát hiện trên nền nhà ở phòng khách có 03 điện thoại di động đang cắm sạc pin, quan sát thấy mọi người trong nhà đã ngủ say nên T lén lút tới lấy 02 điện thoại di động (01 cái hiệu VSMart Joy 3 và 01 cái hiệu Wiko Sunny 4 Plus) rồi thoát ra ngoài bằng cửa sau. Khoảng 15 giờ cùng ngày, T đem điện thoại di động hiệu VSMart Joy 3 đến cửa hàng điện thoại của ông Nguyễn Hữu Q tại thôn 3, xã Tân Đ, huyện Hàm T hỏi bán cho ông Q, ông Q hỏi về nguồn gốc của điện thoại trên thì T trả lời của mình nên ông Q đồng ý mua với giá 1.000.000 đồng, điện thoại di động hiệu Wiko Sunny 4 Plus thì T giữ lại sử dụng. Nghi ngờ T là người trộm cắp điện thoại của mình nên khoảng 18 giờ cùng ngày, bà A đến gặp Tú hỏi chuyện thì phát hiện T cất giấu điện thoại di động hiệu Wiko Sunny 4 Plus trong túi áo khoát đang mặc trên người nên bà A thu giữ, T thừa nhận đã trộm cắp 02 điện thoại của bà A và đến gặp ông Q chuộc lại điện thoại hiệu VSMart Joy 3 đem về trả lại cho bà A.

Theo bản Kết luận định giá tài sản số 15/KL-HĐĐGTS ngày 30/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Hàm Tân xác định thì 02 điện thoại di động (01 cái hiệu VSMart Joy 3 và 01 cái hiệu Wiko Sunny 4 Plus) tại thời điểm bị Nguyễn Anh T chiếm đoạt có giá trị là 2.200.000 đồng, cụ thể:

- Điện thoại di động hiệu VSMart Joy 3 có giá trị 2.000.000 đồng:

- Điện thoại di động hiệu Wiko Sunny 4 Plus có giá trị 200.000 đồng.

Vật chứng được thu giữ của vụ án gồm: 02 điện thoại di động (01 cái hiệu VSMart Joy 3 và 01 cái hiệu Wiko Sunny 4 Plus). Cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm Tân đã trả lại cho bị hại.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 06/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân truy tố bị cáo Nguyễn Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Anh T như nội dung cáo trạng nêu và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng : Khoản 1 Điều 173; điểm i, s, b khoản 1 Điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng.

- Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Anh T khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra và thừa nhận cáo trạng của VKSND huyện Hàm Tân truy tố là hoàn toàn đúng với các hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

- Bị cáo Nguyễn Anh T không có ý kiến cũng như tranh luận gì đối với quan điểm của đại diện VKSND huyện Hàm Tân.

* Bị cáo Nguyễn Anh T nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố vụ án, Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị hại bà Nguyễn Thị A và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Hữu Q vắng mặt. Ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo có mặt tại phiên tòa là đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không gây trở ngại cho việc xét xử, vì lời khai của họ đã khai đầy đủ thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là phù hợp với quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về nội dung vụ án :

[2.1] Về định tội và hình phạt : Tại Toà, bị cáo Nguyễn Anh T thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân đã truy tố. Xét, lời khai của bị cáo tại Tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ căn cứ khẳng định:

Khoảng 02 giờ ngày 09/3/2020, tại nhà chị Nguyễn Thị A thuộc khu phố 2, thị trấn Tân M, huyện Hàm T, Nguyễn Anh T đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt của chị A 02 điện thoại di động (01 cái hiệu VSMart Joy 3 và 01 cái hiệu Wiko Sunny 4 Plus) có tổng giá trị 2.200.000 đồng. Sau đó, Tú đem điện thoại hiệu VSMart Joy 3 bán cho Nguyễn Hữu Q với giá 1.000.000 đồng tiêu xài cá nhân.

Hành vi phạm tội của Nguyễn Anh T đủ yếu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự .

[2.2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Mặc dù bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị nghiêm cấm, nhưng với bản tính tham lam, chây lười lao động, nên bị cáo đã lợi dụng sự mất cảnh giác trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, nhằm mục đích tư lợi cá nhân.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự xem thường pháp luật, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, tạo tâm lý mất an toàn trong quần chúng nhân dân. Do đó, để giữ gìn kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, cần xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khởi đời sống xã hội một thời gian, để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Đối với hành vi của Nguyễn Hữu Q, do không biết điện thoại di động hiệu VSMart Joy 3 mà Nguyễn Anh T bán cho mình là do T phạm tội mà có nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Hàm Tân không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Hữu Q là đúng pháp luật.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không

[2.4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Nguyễn Anh T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra, Tú đã thành khẩn khai báo và đã tự nguyện khắc phục hậu quả. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm i, s, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[2.5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại bà Nguyễn Thị A đã nhận lại tài sản bị cáo chiếm đoạt và không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Anh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội: "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng : Khoản 1 Điều 173; Điểm i, s, b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Anh T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/5/2020.

[2] Về án phí: Áp dụng : Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Nguyễn Anh T phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[3] Về quyền kháng cáo: Áp dung Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HS-ST ngày 04/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về