Bản án 22/2020/HS-PT ngày 19/02/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 22/2020/HS-PT NGÀY 19/02/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 19 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 71/2019/TLPT-HS ngày 27 tháng 12 năm 2019, do có kháng cáo của bị cáo Võ Anh T cùng đồng bọn đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2019/HS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Võ Anh T (tên gọi khác: L), sinh năm 1989 tại Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký HKTT: tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi ở: tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Đức Đ và con bà Nguyễn Thị Thanh H; có vợ tên Phan Thị Thùy D và có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam ngày 07/11/2018, có mặt.

2. Trần Ngọc S (tên gọi khác: T), sinh năm 1998 tại Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký HKTT: tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi ở: thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình N và con bà Hoàng Thị Đ; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam ngày 08/11/2018, có mặt.

3. Võ Đức T1 (tên gọi khác: T), sinh năm 1993 tại Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký HKTT: thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi ở: Thôn 1B, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Phụ xe; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Đức Đ và con bà Nguyễn Thị Thanh H; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 04/12/2013, Công an thành phố H xử phạt hành chính 750.000đ về hành vi đánh nhau.

Bị cáo bị tạm giam ngày 07/11/2018, có mặt.

4. Đoàn Văn N (tên gọi khác: B), sinh năm 1999 tại Thừa Thiên Huế; nơi cú trú: thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn H và con bà Đoàn Thị N; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam ngày 19/11/2018, có mặt.

5. Huỳnh Văn K (tên gọi khác: H), sinh năm 1998 tại Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn H và con bà Châu Thị M; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 09/01/2017, Công an thành phố H xử phạt hành chính 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giam ngày 17/11/2018, có mặt.

6. Lê Hữu Thiên M (tên gọi khác: L), sinh năm 1997 tại Thừa Thiên Huế; nơi cú trú: thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hữu N và con bà Nguyễn Thị Thùy H; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam ngày 08/11/2018, có mặt.

7. Võ Công Q (tên gọi khác: C), sinh năm 1999 tại Thừa Thiên Huế; nơi cú trú: thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa:

06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ T và con bà Trần Thị L; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam ngày 07/11/2018, có mặt.

8. Phan Tấn P (tên gọi khác: T), sinh năm 1994 tại Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký HKTT: thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi ở: thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Tấn T và con bà Nguyễn Thị H; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 25/3/2014, Công an thành phố H xử phạt hành chính 2.500.000đ về hành vi xâm hại sức khỏe người khác.

Bị cáo bị tạm giam ngày 07/11/2018, có mặt.

9. Văn Viết H, sinh năm 1997 tại Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Văn H và con bà Nguyễn Thị T; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 13/8/2012, Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt Cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giam ngày 16/11/2018, cómặt.

10. Tôn Thất C (tên gọi khác: S), sinh năm 1993 tại Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Thợ làm trầm; trình độ văn hóa:

12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Tôn Thất C và con bà Nguyễn Thị T; có vợ tên Trần Thị Yến Đ và có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 16/11/2018, cómặt.

* Luật sư chữa cho các bị cáo:

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Anh T: Luật sư Phan M B, Công ty luật TNHH Đ, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế; địa chỉ: thành phố H.

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Đức T1: Luật sư Tôn Nữ Thái B, Văn phòng luật sư Trần Công T, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế; địa chỉ: thành phố H.

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Hữu Thiên M: Luật sư Nguyễn Văn C, Văn phòng luật sư Trần Công T, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế; địa chỉ: thành phố H.

- Người bào chữa cho bị cáo Phan Tấn P: Luật sư Đặng Thị Ngọc H, Công ty luật TNHH N và Cộng sự, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế, địa chỉ: thành phố H.

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Công Q: Luật sư Nguyễn Thị Gia H, Công ty luật Hợp danh T, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế, địa chỉ: thành phố H.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Ngọc S: Luật sư B C, Văn phòng luật sư B, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế, địa chỉ: thành phố H.

- Người bào chữa cho bị cáo Tôn Thất C: Luật sư Nguyễn Hữu Đ, Văn phòng luật sư B, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế, địa chỉ: thành phố H.

- Người bào chữa cho bị cáo Văn Viết H: Luật sư Trần Đình C, Công ty luật Hợp danh T, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế, địa chỉ: thành phố H.

- Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Văn K: Luật sư Lê Bá Nhật B, Văn phòng luật sư Lê Bá KK, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế, địa chỉ: thành phố H.

- Người bào chữa cho bị cáo Đoàn Văn N:

+ Luật sư Võ Văn H, Văn phòng luật sư H, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế, địa chỉ: thành phố H.

+ Ông Nguyễn Đình H, Văn phòng luật sư T, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế.

(Các luật sư có mặt, riêng luật sư H vắng mặt và bị cáo Đoàn Văn N đồng ý xét xử).

* Bị hại: Anh Võ Công H1 (đã chết).

* Đạ i diệ n hợp pháp của bị hạ i:

- Chị Trần Thị Hải Y, sinh năm 1994, địa chỉ: thành phố H (vợ của bị hại), có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩ a vụ , liên quan:

1. Ông Võ Đức Đ và bà Nguyễn Thị Thanh H; địa chỉ: Thôn 1B, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế (bố mẹ bị cáo Võ Anh T và Võ Đức T1), có mặt.

2. Ông Phan Tấn T, sinh năm 1970; địa chỉ: thành phố H (bố bị cáo Phan Tấn P), có mặt.

3. Ông Lê Hữu N, sinh năm 1956, địa chỉ: thành phố H (bố bị cáo Lê Hữu Thiên M), có mặt.

4. Bà Trần Thị M L, sinh năm 1973, địa chỉ: thành phố H (mẹ bị cáo Võ Công Q), có mặt.

5. Bà Hoàng Thị Đ, sinh năm 1969, địa chỉ: thành phố H (mẹ bị cáo Trần Ngọc S), có mặt.

6. Ông Tôn Thất C, sinh năm 1969; địa chỉ: thị xã H, Thừa Thiên Huế (bố bị cáo Tôn Thất C), có mặt.

7. Ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1970; địa chỉ: thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế (bố bị cáo Huỳnh Văn K), có mặt.

8. Bà Đoàn Thị N, sinh năm 1962, địa chỉ: thành phố H (mẹ bị cáo Đoàn Văn N), có mặt.

9. Ông Văn H, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1971; địa chỉ: thành phố H (bố mẹ bị cáo Văn Viết H), có mặt.

11. Chị Phan Thị Thùy D, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn 1B, xã T, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế (vợ bị cáo Võ Anh T), có mặt.

12. Chị Trần Thị Phi N, sinh năm 1989; địa chỉ: thành phố H (chị bị cáo Trần Ngọc S), có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có một số người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo. Do vậy, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào tháng 10 năm 2018, Võ Anh T có cho Võ Công H1 (H1 xe) mượn 500.000đ (năm trăm ngàn đồng). Sau đó, nhiều lần T đòi nợ nhưng H1 không trả tiền mà còn có những lời nói thách thức đánh nhau với T.

Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 6 tháng 11 năm 2018, Võ Anh T nói Võ Đức T1 (là em ruột của T) đi lên nhà H1 để đòi giúp số tiền mà H1 nợ, T1 đồng ý rồi điều khiển xe máy một mình đến gặp H1. Khi T1 gặp H1 đòi tiền, H1 không chịu trả mà còn chửi T1 trước mặt chị Trần Thị Hải Y (là vợ của H1), rồi điện thoại cho Võ Anh T thách thức hẹn đánh nhau. T1 liền gọi cho T biết việc không lấy được nợ mà còn bị H1 chửi.

T nghe vậy tức giận nên đã trực tiếp gọi điện thoại cho Võ Công Q, Phan Tấn P, Lê Hữu Thiên M, Tôn Thất C, Trần Ngọc S là bạn của T hẹn gặp nhau tại tượng đài Q, địa chỉ: phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế để rủ các đối tượng này tìm H1 đánh nhau. Gọi điện xong, T lấy 2 cây mã tấu (T khai nhặt được từ trước) cất trong cốp xe rồi điều khiển xe máy mang biển số: 75G1-159.13 (xe máy của vợ là chị Phan Thị Thùy Dương) đến chở Phan Tấn P đi lên tượng đài Q đợi. Tại đây lần lượt Trần Văn S, Võ Công Q, Lê Hữu Thiên M và Võ Đức T1 đi đến bằng xe máy. T kể lại sự việc H1 nợ tiền không trả mà có lời nói xúc phạm mình cho tất cả cùng nghe và dự định sẽ đi lên nhà H1 tìm đánh H1. Nghe xong cả nhóm đồng ý, Lê Hữu Thiên M nói: “Không có đồ thì làm sao lên chơi tụi nó được” nghe vậy T đưa cho M 50.000đ (năm mươi ngàn đồng) và nói M đi mua xăng và 2 chai bia huda về để làm bom xăng. M đồng ý cầm tiền đi xe máy của T đến quán tạp hóa của anh Võ T, sinh năm:1975, trú tại: 04 đường H, phường A, thành phố H mua 2 chai bia huđa và 01 lít xăng quay về đưa cho T. T mở nắp chai bia đổ hết nước trong chai ra rồi đổ xăng vào, T xé áo chống nắng lấy trong cốp xe để bịt đầu nút chai làm mồi lửa. T phân công cho S đi chở thêm Đoàn Văn N rồi điện thoại gọi Huỳnh Văn K (là bạn của S) mượn dao và rủ đi đánh nhau. K đồng ý tham gia và rủ thêm Văn Viết H. K về nhà lấy cây dao với đặc điểm cán được quấn băng keo đen, lưỡi làm bằng kim loại có hai lỗ tròn dài 43,3 cm (dao do K khai nhặt được) rồi cùng H điều khiển xe máy Sirius 75F1-305.73 (xe máy của anh Văn H bố đẻ của H) đi đến ngã ba đường T và V để cùng tham gia đánh nhau. Phần T sau khi điện cho K đã điều khiển xe máy (đi một mình) đến quán bán dao của chị Phạm Thị N (sinh năm:1979, trú tại: thành phố H) tại chợ T mua 05 (năm) con dao với giá 250.000đ (Hai trăm năm mươi ngàn đồng), rồi cất vào trong cốp xe.

Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, T điều khiển xe máy 75G1-159.13 chở Trần Ngọc S và Đoàn Văn N đi trước. Phía sau Võ Đức T1 điều khiển xe máy 75F2- 8439 chở Phan Tấn P, Võ Công Q và Lê Hữu Thiên M đến ngã ba đường T và đường V đứng đợi. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày thì Tôn Thất C điều khiển xe máy 75G1-116.42 (xe máy của ông Tôn Thất C cha ruột của C) cùng với Văn Viết H điều khiển xe máy, nhãn hiệu Sirius mang biển kiểm soát 75F1-305.73 chở Huỳnh Văn K đi đến ngã ba đường T và V thì gặp nhóm của H1. Võ Anh T thấy đã có mặt đầy đủ 10 người nên nói cả nhóm để xe máy tại ngã ba đường T và đường V rồi đứng chờ. Khi thấy có Võ Công S (em ruột H1) đi xe máy ngang qua thì T mở cốp xe phân phát hung khí mà mình chuẩn bị cụ thể như sau: T cầm dao bằng kim loại cán gỗ và 01(một) chai bia làm bom xăng đi trước; Võ Đức T1 cầm cây dao kim loại có đặc điểm cán dao làm bằng gỗ; Phan Tấn P cầm cây dao kim loại có đặc điểm cán dao làm bằng gỗ; Võ Công Q cầm cây dao kim loại có đặc điểm cán dao làm bằng gỗ; Văn Viết H cầm cây dao có đặc điểm dài 59,5cm phần lưỡi dao dài 44,5 cm; Đoàn Văn N cầm cây dao có đặc điểm dài 59,5cm, phần lưỡi dao dài 44,5cm. Riêng Trần Ngọc S cầm cây mã tấu tự chế lấy trong cốp xe T (không rõ đặc điểm vì S đã vứt bỏ sau khi gây án) và đưa cho Huỳnh Văn K cầm 1 chai bia làm bom xăng. Lê Hữu Thiên M cầm cây dao có đặc điểm cán được quấn băng keo đen, (do Huỳnh Văn K mang đến). Tôn Thất C cầm theo 1 cây dao lấy ở nhà đem theo có đặc điểm dài 41cm, bị nứt ở phần cán gỗ (Dao làm trầm).

Đến khoảng 19 giờ 25 phút, nhóm T tiếp tục nhìn thấy Võ Công S đi xe máy ngang qua nên chạy bộ đuổi theo. Khi đuổi đến trước cổng Trường tiểu học Huyền Trân, thì nhìn thấy nhóm của Võ Công H1 (gồm 09 người) đang cầm hung khí chờ sẵn. Trong đó: Võ Công H1 cầm 01 cây rựa; Trần M Đ, sinh năm: 1997, trú tại: phường A, thành phố H đang cầm đùi tre; Lê Văn Ngọc H, sinh năm: 1997, trú tại: Tổ 3, khu vực 2, phường A, thành phố H đang cầm 02 vỏ chai bia; Huỳnh Ngọc L, sinh năm: 1991, trú tại: Tổ 5, khu vực 3, phường A, thành phố H đang cầm ná bắn đá; Trần Quang L, sinh năm: 1999, trú tại: Tổ 8, khu vực 4, phường A, thành phố H đang cầm 1 ống tuýp sắt; Lê Đức L, sinh năm: 1995, trú tại: phường A, thành phố H đang cầm 1 cục đá; Trần Văn N, sinh năm: 1997, trú tại: Tổ 4, khu vực 2, phường A, thành phố H đang cầm 1 ống tuýp sắt; Lê Hồng S, sinh năm: 2000, trú tại: thành phố H đang cầm 1 ống tuýp sắt; Lê Văn N, sinh năm: 1999, trú tại: Tổ 6, khu vực 3, phường A, thành phố H đang cầm 02 vỏ chai bia; Võ Công S, sinh năm: 1996 (em ruột của Võ Công H1), trú tại: Tổ 2 , khu vực 3, phường A, thành phố H đang cầm 02 vỏ chai bia.

Khi giáp mặt hai nhóm xông vào đánh chém nhau: T và K dùng bật lửa đốt bom xăng cầm ở tay phải ném vào nhóm của Võ Công H1. Sau đó T cầm dao xông lên rồi rượt đuổi chém Võ Công H1 còn Huỳnh Văn K quay lại khoảng 10 mét chờ đồng bọn. Bị tấn công nhóm của Võ Công H1 bỏ chạy về hướng nhà H1. Lúc H1 chạy đến trước cổng trường H cách trụ cổng trường bên trái (theo hướng từ ngoài nhìn vào) khoảng 5 mét thì bị ngã úp mặt xuống đất. Thấy vậy, cả nhóm T cầm dao xông vào chém H1 cụ thể: Trần Ngọc S là người đầu tiên xông vào chém liên tiếp 2 nhát trúng vào đầu H1. Bị S chém trúng H1 đưa hai tay lên đầu che và nằm ngữa người thì bị Võ Anh T chạy đến đứng ngay phía trên đầu H1 cầm dao ở tay phải chém liên tiếp 3-4 nhát theo hướng từ trên xuống dưới trúng vào vùng đầu, hai tay của H1, cùng lúc này là Võ Đức T1 (đứng sát T) cầm dao ở tay phải chém 1 nhát trúng đầu H1 sau đó T1 xoay ngược cây dao chém 2 nhát bằng sống dao và bả dao trúng vào đầu H1, Đoàn Văn N chạy đến giữa hai chân của H1 cầm dao ở tay phải chém 1 nhát trúng vào chân của H1 mặc cho H1 ôm hai tay trên đầu kêu la. Trong lúc S, T, T1 và Nhật chém H1 thì đứng xung quanh vị trí H1 nằm Võ Công Q, Phan Tấn P, Tôn Thất C, Lê Hữu Thiên M và Văn Viết H đều cầm dao ở tay và đưa dao về phía trước với mục đích ngăn cản không cho nhóm H1 tới cứu H1. Chỉ khi thấy H1 nằm im, bất động thì T cầm dao ở tay phải chỉ mũi dao xuống vị trí H1 nằm nói to: “Tụi bây có ngon thì xông vào”. Thấy nhóm của H1 không có ai xông tới nên T nói cả nhóm: “Về lấy xe máy”.

Chém H1 xong, nhóm Võ Anh T thu gom toàn bộ hung khí (trong đó có một cây rựa T đã nhặt được của H1) quay lại chỗ để xe máy rồi tẩu thoát về hướng đường H. Khi đến tượng đài Q, cả nhóm giao lại hung khí cho T cất vào cốp xe Airbalde và hẹn nhau đến quán bia lạnh ở đường Đ (không rõ địa chỉ) ngồi nhậu. Riêng Trần Ngọc S đi một mình lên hướng đường Lvứt cây mã tấu trong thùng rác ngay sát bên đường rồi quay trở về quán uống bia cùng. Trong lúc cả nhóm ngồi uống bia thì T đi một mình đến khu lăng mộ bà H, địa chỉ: khu vực 4, phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế cất giấu toàn bộ hung khí phía trên chân đồi rồi quay về uống bia cho đến 22 giờ cùng ngày T trả tiền rồi cả nhóm giải tán.

Hậu quả: Võ Công H1 bị nhóm Võ Anh T dùng dao, mã tấu chém vào người 08 (tám) nhát gây thương tích nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Trung ương Huế. Đến ngày 07/11/2018 thì Võ Công H1 tử vong.

Ngày 07/11/2018 đến 19/11/2018, Võ Anh T, Võ Đức T1, Phan Tấn P, Võ Công Q, Lê Hữu Thiên M, Huỳnh Văn K, Văn Viết H, Đoàn Văn N và Tôn Thất C ra đầu thú. Riêng Trần Ngọc S bị Cơ quan công an bắt khi đang lẩn trốn. Tại Cơ quan điều tra 10 bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

1. Bản kết luận giám định số 280-18/TT Ngày 25/12/2018, của Trung tâm pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận:

- Chẩn đoán pháp y: Chấn thương sọ não vỡ hộp sọ vùng thái dương chẫm trái gây xuất huyết nội sọ lan tỏa – phù não, tụt kẹt thùy hạnh nhân tiễu não/ Đa vết thương phần mền gây mất máu – rối loạn đông máu gây tử vong. Các dấu vết bên ngoài và bên trong cơ thể chứng tỏ bị tác động do hai loại hung khí là vật có cạnh sắc và vật tày cứng có cạnh tác động nhiều nơi, nhiều hướng trên cơ thể, trong đó điểm tác động chủ yếu tập trung vào vùng đầu bên trái gây ra các vết rách da và vỡ hộp sọ (các vết ở bàn tay phù hợp với tư thế nạn nhân nằm co chống đỡ bảo vệ vùng đầu). Các đám xây xước vùng ngực và hai chân có đặc tính gồm nhiều vết xước song song, phù hợp với nạn nhân ngã xuống đường tạo nên.

- Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não vỡ hộp sọ vùng thái dương chẫm trái gây xuất huyết nội sọ lan tỏa – phù não, tụt kẹt thùy hạnh nhân tiểu não/ đa vết thương phần mềm gây mất máu – rối loạn đông máu gây tử vong.

2. Bản kết luận giám định máu số 453 và 454 ngày 25 tháng 12 năm 2018 xác định hung khí được đánh số 1 và số 2 có dính máu người, nhóm máu O và nhóm máu của Võ Công H1 là nhóm máu O. Dấu vết máu thu trên con dao có dính máu là máu của nạn nhân Võ Công H1.

Bản án 61/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế Tuyên bố: Các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Phan Tấn P, Văn Viết H và Tôn Thất C phạm tội “Giết  người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 đối với các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Văn Viết H (áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 đối với bị cáo Võ Anh T), xử phạt:

- Bị cáo Võ Anh T 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 07/11/2018.

- Bị cáo Trần Ngọc S 18 (mười tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 08/11/2018.

- Bị cáo Võ Đức T1 14 (mười bốn) năm 6 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 07/11/2018.

- Bị cáo Đoàn Văn N 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 19/11/2018.

- Bị cáo Huỳnh Văn K 13 (mười ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 17/11/2018.

- Bị cáo Lê Hữu Thiên M 13 (mười ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 08/11/2018.

- Bị cáo Võ Công Q 12 (mười hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/11/2018 - Bị cáo Văn Viết H 12 (mười hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/11/2018. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 đối với các bị cáo Phan Tấn P, và Tôn Thất C, xử phạt:

- Bị cáo Phan Tấn P 11 (mười một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/11/2018.

- Bị cáo Tôn Thất C 10 (mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/11/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 22, 25, 26/11/2019, bị cáo Võ Anh T, Đoàn Văn N, Trần Ngọc S, Văn Viết H, Phan Tấn P, Huỳnh Văn K, Võ Đức T1, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Tôn Thất C kháng cáo với nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 23, 25/11/2019, chị Trần Thị Hải Y là người đại diện hợp pháp của bị hại Võ Công H1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Phan Tấn P, Tôn Thất C.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C và chị Trần Thị Hải Y trình bày giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Đây là vụ án giết người do nhiều bị cáo dùng hung khí là dao, bom xăng cùng thực hiện, hậu quả bị hại chết. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội có tính chất côn đồ, hung hãn. Tuy nhiên, trong vụ án này bị hại cũng có một phần lỗi, nợ tiền không trả và còn thách đố hẹn gặp để đánh nhau. Sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C đã bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự. Bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C đã nộp một lần số tiền đóng góp cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của chị Yến là nhận một lần (mỗi bị cáo nộp 52.500.000 đồng). Các bị cáo Võ Anh T, Võ Đức T1, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Tôn Thất C đã nộp xong tiền án phí HSST, DSST và án phí cấp dưỡng. Bị cáo Nhật nộp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị Yến được 1.500.000 đồng và án phí HSST. Trong vụ án, bị cáo T và bị cáo T1 là hai anh em ruột. Các bị cáo Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C không trực tiếp chém bị hại. Tại phiên tòa hôm nay, chị Y là người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và đồng ý để các bị cáo Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M tiếp tục nộp tiền đóng góp cấp dưỡng nuôi con theo tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo và giảm hình phạt cho các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C. Đối với các bị cáo Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M mức án cấp sơ thẩm xử phạt là thỏa đáng, nên không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo phát biểu và các bị cáo bổ sung với nội dung: Thống nhất về tội danh và điều luật Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo đều có tình tiết mới giảm nhẹ hình phạt; tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Chị Trần Thị Hải Y trình bày: Các bị cáo đã bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự; đối với tiền đóng góp cấp dưỡng nuôi con, tôi yêu cầu nộp một lần thì cơ bản các bị cáo đã nộp đầy đủ cho tôi. Còn một số bị cáo chưa nộp xong tiền đóng góp cấp dưỡng nuôi con cho tôi, thì tôi đồng ý cho các bị cáo Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M tiếp tục nộp theo tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Tôi mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Vào ngày 22, 25, 26/11/2019, các bị cáo Võ Anh T, Đoàn Văn N, Trần Ngọc S, Văn Viết H, Phan Tấn P, Huỳnh Văn K, Võ Đức T1, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Tôn Thất C kháng cáo và ngày 23, 25/11/2019, chị Trần Thị Hải Y là người đại diện hợp pháp của bị hại Võ Công H1 kháng cáo B h 61/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Như vậy, kháng cáo của các bị cáo Võ Anh T, Đoàn Văn N, Trần Ngọc S, Văn Viết H, Phan Tấn P, Huỳnh Văn K, Võ Đức T1, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Tôn Thất C và của chị Trần Thị Hải Y là trong thời hạn luật định. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo:

[2.1] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, các bị cáo Võ Anh T, Đoàn Văn N, Trần Ngọc S, Văn Viết H, Phan Tấn P, Huỳnh Văn K, Võ Đức T1, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Tôn Thất C khai nhận hành vi phạm tội “Giết người”, cụ thể như sau: Giữa Võ Anh T và bị hại Võ Công H1 có quen biết nhau, nên H1 có mượn của T một số tiền và đã trả được một phần. Số tiền H1 còn nợ, T đã nhiều lần yêu cầu H1 trả nhưng H1 cố tình không trả, nên xảy ra mâu thuẫn nhau và H1 thách thức đánh nhau với T. Ngày 06/11/2018, T đã liên hệ rủ đồng bọn gồm Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C để đi đánh nhau với H1 và được tất cả đồng ý. Đồng thời, Võ Công H1 cũng liên hệ rủ Trần M Đ, Lê Văn Ngọc H, Huỳnh Ngọc L, Trần Quang L, Lê Đức L, Trần Văn N, Lê Hồng S, Lê Văn N, Võ Công S đánh nhau với nhóm của T và được tất cả đồng ý. Võ Anh T cùng đồng bọn tập trung và chuẩn bị hung khí là dao, mã tấu, bom xăng; còn Võ Công H1 cùng đồng bọn cũng chuẩn bị hung khí là dao, đùi tre, vỏ chai bia, ná bắn đá, tuýt sắt, đá mục đích là để đánh nhau với nhóm của T. Đến 19 giờ 25 phút cùng ngày, hai nhóm gặp nhau trên đường T, thuộc tổ 6, khu vực 3, phường A, thành phố H. Lúc này, hai nhóm có lời qua tiếng lại thì nhóm của T ném bom xăng về phía nhóm của H1; nhóm của H1 cũng dùng ná bắn đá, vỏ chai bia bắn ném chống trả về phía nhóm của T. Đồng thời, nhóm của H1 đuổi đánh nhóm của T. Nhóm của T bỏ chạy một đoạn thì quay lại đuổi nhóm của H1; khi H1 và đồng bọn bỏ chạy thì H1 bị ngã tại trước cổng trường tiểu học H thì bị Võ Anh T cùng đồng bọn dùng dao, mã tấu chém nhiều nhát vào đầu, người Võ Công H1. Hậu quả Võ Công H1 tử vong. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng; phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, các bản kết luận giám định, biên bản và bản kết luận giám định pháp y về tử thi; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Nguyên nhân chỉ vì Võ Công H1 không trả nợ tiền cho T và thách thức đánh nhau; từ đó, bị cáo Võ Anh T cùng đồng bọn đã dùng dao, mã tấu chém Võ Công H1 dẫn đến H1 tử vong. Các bị cáo phạm tội không có sự câu kết chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện tội phạm, mà chỉ là đồng phạm giảm đơn nên không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, mà phạm tội có tính chất côn đồ. B h 61/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã xét xử các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Phan Tấn P, Văn Viết H và Tôn Thất C về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Về vai trò thực hiện hành vi phạm tội:

Bị cáo Võ Anh T là người đóng vai trò chính, trực tiếp rủ đồng bọn, chuẩn bị hung khí và thực hiện hành vi phạm tội rất quyết liệt. Các bị cáo Trần Ngọc S, Đoàn Văn N, Võ Đức T1, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C đều thống nhất ý chí với bị cáo T là dùng hung khí để đâm, chém nhóm Võ Công H1. Do vậy, là đồng phạm với bị cáo Võ Công T. Trước khi thực hiện hành vi chém bị hại Võ Công H1, bị cáo M được T đưa tiền đi mua xăng và vỏ chai bia về để T và M làm bom xăng; bị cáo K khi đi có mang theo dao. Khi hai nhóm gặp nhau thì T và K bật lửa châm mồi bom xăng và ném về phía nhóm Võ Công H1; các bị cáo Trần Ngọc S, Đoàn Văn N, Võ Đức T1 tham gia thực hiện tội phạm cũng rất quyết liệt. Trong đó, bị cáo S là người chém đầu tiên và chém 02 nhát vào đầu Võ Công H1; tiếp đến là bị cáo T chém Võ Công H1 03 đến 04 nhát đều vào đầu, tay; bị cáo T1 chém Võ Công H1 03 nhát vào đầu, trong đó nhát thứ 02 chém bằng sống dao và nhát thứ 03 chém bằng báng dao. Cuối cùng, bị cáo Nhật chém Võ Công H1 01 nhát vào chân. Khi đồng bọn dùng dao chém bị hại H1 thì các bị cáo Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C cũng đều cầm hung khí; mặc dù không chém H1, nhưng đứng gần đó để khống chế không cho đồng bọn của Võ Công H1 xông tới đánh giải vây cho H1. Tới khi Võ Công H1 nằm bất động và nhóm của T bỏ đi thì đồng bọn của H1 mới đến để đưa H1 đi cấp cấp cứu. Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định, đánh giá hành vi thực hiện tội phạm, nhân thân của từng bị cáo; các tình tiết giảm nhẹ hình phạt mà từng bị cáo được áp dụng và xử phạt tù các bị cáo theo vai trò, thứ tự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo đều kháng cáo và cung cấp một số tình tiết mới như sau:

- Chi phí mai táng, tổn thất tinh thần: Các bị cáo đều tác động gia đình trực tiếp gặp bồi thường cho chị Trần Thị Hải Y, được chị Y xin giảm nhẹ hình phạt cho tất cả các bị cáo và xác nhận, cụ thể như sau. Các bị cáo Võ Anh T, Võ Đức T1 bồi thường 10.000.000 đồng; bị cáo Trần Ngọc S bồi thường 10.000.000 đồng; bị cáo Đoàn Văn N bồi thường 16.000.000 đồng; bị cáo Huỳnh Văn K bồi thường 18.000.000 đồng; bị cáo Lê Hữu Thiên M bồi thường 11.000.000 đồng; bị cáo Võ Công Q bồi thường 5.000.000 đồng; bị cáo Phan Tấn P bồi thường 5.000.000 đồng; bị cáo Văn Viết H bồi thường 10.000.000 đồng; bị cáo Tôn Thất C bồi thường 5.000.000 đồng.

- Tiền trợ cấp nuôi con: Chị Trần Thị Hải Y là người đại diện hợp pháp của các cháu Võ Thị Yến N, Võ Công Gia B đồng ý nhận khoản trợ cấp nuôi con của các bị cáo một lần và xin giảm nhẹ hình phạt cho tất cả các bị cáo, cụ thể như sau. Các bị cáo Võ Anh T, Võ Đức T1, Trần Ngọc S, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C bồi thường mỗi bị cáo 52.500.000 đồng; bị cáo Đoàn Văn N bồi thường 1.500.000 đồng (tương đương 05 tháng).

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M xin nộp tiền đóng góp cấp dưỡng nuôi con theo tháng và được chị Trần Thị Hải Y đồng ý. Như vậy, bị cáo Đoàn Văn N tiếp tục nộp tiền cấp dưỡng nuôi cháu Võ Thị Yến N, sinh ngày 02/5/2014 và cháu Võ Công Gia B, sinh ngày 18/10/2015 số tiền 150.000 đồng/01cháu/01tháng kể từ tháng 4/2019. Bị cáo Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M tiếp tục nộp tiền cấp dưỡng nuôi cháu Võ Thị Yến N, sinh ngày 02/5/2014 và cháu Võ Công Gia B, sinh ngày 18/10/2015 mỗi bị cáo số tiền 150.000 đồng/01cháu/01tháng kể từ tháng 11/2018. Các bị cáo Nhật, K, M đóng góp cấp dưỡng vào ngày 15 hàng tháng cho đến khi các cháu Võ Thị Yến N, Võ Công Gia B đủ 18 tuổi; chị Trần Thị Hải Y là người đại diện hợp pháp của các cháu N, B nhận tiền đóng góp cấp dưỡng.

- Ngoài ra, các bị cáo Võ Anh T, Võ Đức T1, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Tôn Thất C đã nộp xong tiền án phí HSST, DSST và án phí cấp dưỡng (theo các biên lai thu số AA/2011/005671, AA/2011/005672, AA/2011/005670, AA/2011/005669 cùng ngày 14/02/2020; số AA/2011/005450 ngày 06/01/2020). Bị cáo Đoàn Văn N đã nộp xong tiền án phí HSST theo biên lai thu số AA/2011/005668 ngày 11/02/2020). Các biên lai thu đều của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế.

Với những tình tiết giảm nhẹ mới nêu trên; đồng thời, trong vụ án này bị hại là người cũng có một phần lỗi. Bị cáo Võ Anh T và bị cáo Võ Đức T1 là hai anh em ruột. Các bị cáo Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C là đồng phạm nhưng không trực tiếp chém bị hại. Đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Do vậy, cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C là phù hợp. Đối với các bị cáo Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M mức án cấp sơ thẩm xử phạt là thỏa đáng, nên cần giữ nguyên.

Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M. Sửa bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C không phải chịu; các bị cáo Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M. Sửa B h 61/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

2. Tuyên bố: Các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Phan Tấn P, Văn Viết H, Tôn Thất C đều phạm tội “Giết người”.

3. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (bị cáo Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015), xử phạt:

- Bị cáo Võ Anh T 18 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 07/11/2018.

- Bị cáo Trần Ngọc S 17 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 08/11/2018.

- Bị cáo Võ Đức T1 13 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 07/11/2018.

- Bị cáo Đoàn Văn N 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 19/11/2018.

- Bị cáo Huỳnh Văn K 13 (mười ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 17/11/2018.

- Bị cáo Lê Hữu Thiên M 13 (mười ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 08/11/2018.

- Bị cáo Võ Công Q 11 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/11/2018 - Bị cáo Văn Viết H 11 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/11/2018.

- Bị cáo Phan Tấn P 09 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/11/2018.

- Bị cáo Tôn Thất C 09 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/11/2018.

4. Về trách nhiệm dân sự:

4.1. Ghi nhận việc các bị cáo đã bồi thường xong tiền chi phí mai táng, tổn thất tinh thần cho đại diện hợp pháp bị hại, cụ thể: Các bị cáo Võ Anh T, Võ Đức T1 bồi thường 10.000.000 đồng; bị cáo Trần Ngọc S bồi thường 10.000.000 đồng; bị cáo Đoàn Văn N bồi thường 16.000.000 đồng; bị cáo Huỳnh Văn K bồi thường 18.000.000 đồng; bị cáo Lê Hữu Thiên M bồi thường 11.000.000 đồng; bị cáo Võ Công Q bồi thường 5.000.000 đồng; bị cáo Phan Tấn P bồi thường 5.000.000 đồng; bị cáo Văn Viết H bồi thường 10.000.000 đồng; bị cáo Tôn Thất C bồi thường 5.000.000 đồng.

4.2. Ghi nhận việc các bị cáo đã bồi thường tiền trợ cấp nuôi con cho chị Trần Thị Hải Y là người đại diện hợp pháp của các cháu Võ Thị Yến N, Võ Công Gia B, cụ thể: Các bị cáo Võ Anh T, Võ Đức T1, Trần Ngọc S, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C bồi thường mỗi bị cáo 52.500.000 đồng; bị cáo Đoàn Văn N bồi thường 1.500.000 đồng (tương đương 05 tháng).

Bị cáo Đoàn Văn N tiếp tục nộp tiền cấp dưỡng nuôi cháu Võ Thị Yến N, sinh ngày 02/5/2014 và cháu Võ Công Gia B, sinh ngày 18/10/2015 số tiền 150.000 đồng/01cháu/01tháng kể từ tháng 4/2019. Bị cáo Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M tiếp tục nộp tiền cấp dưỡng nuôi cháu Võ Thị Yến N, sinh ngày 02/5/2014 và cháu Võ Công Gia B, sinh ngày 18/10/2015 mỗi bị cáo số tiền 150.000 đồng/01cháu/01tháng kể từ tháng 11/2018. Các bị cáo Nhật, K, M đóng góp cấp dưỡng vào ngày 15 hàng tháng cho đến khi các cháu Võ Thị Yến N, Võ Công Gia B đủ 18 tuổi; chị Trần Thị Hải Y là người đại diện hợp pháp của các cháu N, B nhận tiền đóng góp cấp dưỡng.

Các bị cáo Võ Anh T, Võ Đức T1, Lê Hữu Thiên M, Võ Công Q, Tôn Thất C đã nộp xong tiền án phí HSST, DSST và án phí cấp dưỡng (theo các biên lai thu số AA/2011/005671, AA/2011/005672, AA/2011/005670, AA/2011/005669 cùng ngày 14/02/2020; số AA/2011/005450 ngày 06/01/2020). Bị cáo Đoàn Văn N đã nộp xong tiền án phí HSST theo biên lai thu số AA/2011/005668 ngày 11/02/2020). Các biên lai thu đều của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế.

Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Võ Anh T, Trần Ngọc S, Võ Đức T1, Võ Công Q, Văn Viết H, Phan Tấn P, Tôn Thất C không phải chịu; các bị cáo Đoàn Văn N, Huỳnh Văn K, Lê Hữu Thiên M mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

332
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HS-PT ngày 19/02/2020 về tội giết người

Số hiệu:22/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về