Bản án 22/2020/HS-PT ngày 14/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 22/2020/HS-PT NGÀY 14/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 14 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 44/2020/TLPT-HS ngày 21 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo: Nguyễn Hải N và đồng phạm về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đối với bản án hình sự sơ thẩm số 44/2020/HS-ST ngày 15-9-2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Hải N, sinh ngày 08/11/1967 tại Quảng Trị; Nơi ĐKHKTT: tỉnh Quảng Trị; Chỗ ở trước khi bị bắt: Thuê nhà tại tổ 2 phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 5/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: Không ; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hải L (c) và bà Trần Thị T (s); Có vợ Cao Thị H (sn: 1969); Có 03 người con lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1997; Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ ba.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 07/8/2019 bị Đồn Biên phòng H - Bộ đội Biên phòng thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính: Sử dụng trái phép chất ma túy.

Nhân thân:

- Ngày 27/9/2008 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt 12 năm tù về tội: Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 03/02/2016 chấp hành xong hình phạt;

- Ngày 30/5/1998 bị Công an huyện V, tỉnh Quảng Trị xử phạt vi phạm hành chính: Gây rối trật tự công công.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 07/8/2019. Có mặt.

2. Cao Thị H, sinh năm 1969 tại Quảng Trị; Nơi ĐKHKTT: tỉnh Quảng Trị; Chỗ ở trước khi bị bắt: Thuê nhà tại tổ 2 phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không ; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Cao Duy K (s) và bà Trương Thị C (s) (án sơ thẩm xác định: bà Trương Thị T là không chính xác); Có chồng Nguyễn Hải N (sn: 1967); Có 03 người con lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1997; Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ năm.

Nhân thân: Ngày 27/9/2008 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt 8 năm tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 15/8/2013 chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 07/8/2019. Có mặt.

2. Những người tham gia tố tụng khác:

Ngưi bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hải N: Ông Ông Quốc C – Công ty luật TNHH MTV H và Cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

Ngưi bào chữa cho bị cáo Cao Thị H: Ông Lê Hữu P – Công ty luật TNHH MTV H và cộng sự thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 03 giờ 30 phút ngày 07/8/2019 tại trước Trung tâm vận hành Hầm H thành phố Đà Nẵng, Đồn Biên phòng H, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng thành phố Đà Nẵng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Hải N và Cao Thị H về hành vi Vận chuyển trái phép chất ma túy, tang vật thu giữ:

- 05 gói nylon màu xanh bên trong có chứa 970 viên nén màu hồng, 10 viên nén màu xanh. Ký hiệu A1, A2.

- 01 gói nylon màu xanh bên trong có chứa 189 viên nén màu hồng, 02 viên nén màu xanh. Ký hiệu B1, B2.

- 01 xe Ô tô BKS 43A-06137 - 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Hải N - 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Hải N - 01 hộ chiếu số C0648851 tên Cao Thị H - 01 sổ hộ khẩu chủ hộ Cao Thị H - 01 sổ tiết kiệm tên Cao Thị H - 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS 74H3-0057, tên Nguyễn Hải Hà do Công an V, Quảng Trị cấp;

- 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS 8 8K1-2811, tên Nguyễn Văn Thọ do Công an Lập Trạch, Vinh Phúc cấp;

- 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS 74D 1-007.25, tên Nguyễn Ngọc Hải do Công an Triệu Phong, Quảng Trị cấp;

- 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS 74H1-128.66, tên Đỗ Thị Nhân do Công an Hướng Hóa, Quảng trị cấp;

- 01 giấy đăng ký xe mô tô BKS 43E 1-427.00, tên Võ Văn Phưong do Công an S, thành phố Đà Nằng cấp;

- 01 giấy nhận định kiểm định xe ô tô BKS 43A-06137;

- 01 giấy nhận định kiểm định xe ô tô BKS 43A-06137 (bản sao);

- 02 bảo hiểm xe ô tô BKS 43A-06137 tên Bùi Thị Như Quỳnh;

- 01 ĐTDĐ Sam sung màu đỏ số thuê bao 0589048232, 0705992727 thu giữ của Cao Thị H;

- 01 ĐTDĐ NOKIA màu đen số thuê bao 0911567945 thu giữ của Nguyễn Hải N.

- 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng).

Tại kết luận giám định số: 223/GĐ-MT ngày 13/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Đà Nẵng, kết luận: Viên nén màu hồng và màu xanh trong 06 gói nylon được niêm phong trong bì có kí hiệu A, B gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng mẫu viên nén Al: 95,11 gam; mẫu A2:

1,021 gam; mẫu B1: 18,231 gam; mẫu B2: 0,211 gam.

Qua điều tra xác minh:

Nguyễn Hải N, Trần R (sinh năm 1983 trú Quảng Trị) quen biết nhau từ 2009 do cùng thi hành án tại trại giam Đ. Quảng Bình. Tháng 7/2019 N điện thoại cho R hỏi mua 1.200 viên ma túy loại hồng phiến, tổng trị giá 46.000.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu đồng). R đồng ý. Ngày 06/8/2019, R nhắn tin cho Nguyễn Hải N: số tài khoản là “Tran Rac Sacombank 040074012525 ” để N chuyển tiền trước. Nguyễn Hải N đưa cho vợ là Cao Thị H 10.000.000 đồng hay 20.000.000 đồng N không nhớ rõ để chuyển trước cho Trần R, còn lại trả sau. Cao Thị H khai N chỉ đưa 10.000.000 đồng. Sau đó, H nhờ con gái tên Nguyễn Thị Kim O (sinh năm 1991, trú thành phổ Đà.Nẳng) chuyển tiền vào tài khoản của Trần R. O sử dụng dịch vụ ngân hàng chuyển số tiền 10.000.000 đồng vào tài khoản của Trần R nhưng không biết gì về nội dung giao dịch mua bán trái phép chất ma túy.

Vào khoảng 17h00 ngày 06/8/2019, Nguyễn Hải N cùng vợ là Cao Thị H đi từ nhà trọ phường T, S, thành phố Đà Nằng đến 137 L, Đà Nẵng để thuê xe ô tô BKS 43A-06137 của Bùi Viết Thanh Q (sinh năm 1995, trú thành phố Đà Nẵng) và tự lái ra tỉnh Thừa Thiên Huế gặp Trần R để mua ma túy tổng hợp loại hồng phiến nhằm mục đích mang về thành phố Đà Nẵng sử dụng và bán lại kiếm lời.

Trần R hẹn Nguyễn Hải N đến một nhà nghỉ ở tỉnh Thừa Thiên Huế để giao dịch mua bán ma túy (N không nhớ rõ tên và địa chỉ), N thuê 01 phòng và nói H vào phòng trước, còn N lên một phòng khác tại tầng 3 để gặp R. Tại đây, N giao cho R 26.000.000 đồng và nhận 06 gói nylong màu xanh chứa ma túỵ. N không kiểm tra số lượng cụ thể từng gói mà chỉ lấy ra 09 viên ma túy từ 01 gói nylong màu xanh để sử dụng chung với R. Sau đó, Trần R dùng băng keo màu đen liên kết 05 gói nylong chưa mở đem cất dấu vào túi đựng đồ phía sau ghế lái của xe ô tô BKS 43A-06137. Riêng gói nylong chứa ma túy tổng hợp hồng phiến N đã mở để sử dụng cùng R thì N bỏ vào trong túi xách của vợ là Cao Thị H cất giấu.

Khoảng 23 giờ 40 phút cùng ngày, N điều khiển xe ô tô BKS 43A-06137 chở H từ Huế về lại Đà Nẵng, đến khoảng 03 giờ 30 phút ngày 07/8/2019 khi đến đoạn phía nam Hầm đèo H thì bị lực lượng Bộ đội Biên phòng thành phố Đà Nẵng yêu cầu dừng xe kiểm tra; qua kiểm tra, phát hiện, thu giữ trong ngăn đựng đồ phía sau ghế tài xế có 05 gói nylong màu xanh bên trong chứa 980 viên ma túy tổng hợp màu hồng phiến; thu giữ trong túi xách màu xám có hoa văn của Cao Thị H 01 gói nylon màu xanh, bên trong có chứa 191 viên ma túy tổng hợp hồng phiến. Đồn Biên phòng H thành phố Đà Nẵng tiến hành lập Biên bản bắt quả tang, thu giữ tang vật.

Ngoài ra, Nguyễn Hải N khai trước khi bị bắt quả tang còn 01 lần mua ma túy của Trần R 340 viên giá 16.000.000 đồng tại thành phố Đà Nẵng để bán. Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu được vật chứng, không xác định được người mua, nên không có cơ sở chứng minh.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 44/2020/HS-ST ngày 15-9-2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Hải N, Cao Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 BLHS;

Xử phạt: Nguyễn Hải N tù Chung thân. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 07/8/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Hải N số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng).

- Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 BLHS;

Xử phạt: Cao Thị H 18 (Mười tám) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 07/8/2019.

Phạt bổ sung đối với bị cáo Cao Thị H số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

Ngoài ra bản án còn quyết định về phần xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 25/9/2020 bị cáo Nguyễn Hải N và Cao Thị H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 14 tháng 10 năm 2020 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm số 27/QĐ-VC2 kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm số 14/2020/HS-ST ngày 14/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng không áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo Cao Thị H từ 18 lên 20 năm tù.

* Tại phiên tòa:

- Các bị cáo Nguyễn Hải N và Cao Thị H rút yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đè nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; sửa án sơ thẩm, tăng hình phạt tù đối với bị cáo Cao Thị H từ 18 năm lên 20 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng và ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy đủ căn cứ kết luận:

Vào lúc 03h30’ ngày 07/8/2019, tại trước Trung tâm vận hành hầm H thuộc thành phố Đà Nẵng, đồn Biên phòng H, Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Nguyễn Hải N và Cao Thị H mua bán trái phép 114,573 gam ma tuý loại Methamphetamine.

Với hành vi nêu trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2020/HS-ST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hải N, Cao Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Hải N và Cao Thị H rút yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với nội dung yêu cầu kháng cáo của các bị cáo.

[3]. Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, nhận thấy: Đối với bị cáo Cao Thị H tại phiên tòa sơ thẩm còn khai báo quanh co, che dấu hành vi phạm tội của mình, không thể hiện sự ăn năn hối cải, nhưng án sơ thẩm cho bị cáo H hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là không đúng quy định pháp luật. Tuy tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và ăn năn hối cải, nhưng xét thấy bị cáo có nhân thân xấu, vào năm 2008 đã bị kết án 8 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nêu trên; án sơ thẩm xử phạt bị cáo 18 năm tù là có phần nhẹ, không đúng quy định tại Điều 54 và khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, sửa án sơ thẩm, tăng hình phạt tù đối với bị cáo H.

[4]. Do rút yêu cầu kháng cáo, nên các bị cáo Nguyễn Hải N và Cao Thị H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2020/HS-ST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Từ nhận định trên;

Căn cứ khoản 1 Điều 348; điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

QUYẾT ĐỊNH

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Nguyễn Hải N, Cao Thị H; Giữ nguyên mức hình phạt tù đối với bị cáo Nguyễn Hải N.

2. Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng; sửa án sơ thẩm, tăng hình phạt tù đối với bị cáo Cao Thị H.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Hải N, Cao Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 BLHS;

Xử phạt: Nguyễn Hải N: tù Chung thân. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 07/8/2019.

Xử phạt: Cao Thị H 20 (Hai mươi năm) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 07/8/2019.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Hải N, Cao Thị H không phải phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp, án phí sơ thẩm được thi hành theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2020/HS- ST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2020/HS-PT ngày 14/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:22/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về