Bản án 22/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 22/2019/HS-ST NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 27 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 10/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1.Mai Đức A- Sinh ngày 16 tháng 6 năm 1991,tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Hộ khẩu thường trú: Khu phố B, phường C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Chỗ ở hiện nay Như trên; Nghề nghiệp: Buôn bán;Trình độ văn hóa 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Cha là ông Mai Đức D, sinh năm 1956 ; Mẹ là bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1966; Bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ con Tiền án, tiền sự: không.

Bị can bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Thị xã Phú Mỹ từ ngày 29/5/2018 cho đến nay.

2.Mai Đức H- Sinh ngày 04 tháng 12 năm 1993, tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Hộ khẩu thường trú: Khu phố B, phường C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Chỗ ở hiện nay Như trên; Nghề nghiệp: Buôn bán;Trình độ văn hóa 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Cha là ông Mai Đức D, sinh năm 1956 ; Mẹ là bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1966; Bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ con Tiền án, tiền sự: không

Nhân thân: Tại bản án số 123/HSST ngày 29/8/2018 của TAND huyện Tân Thành ( nay là TX Phú Mỹ) đã tuyên phạt Mai Đức S 02 năm 06 tháng tù có thời hạn về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Hiện bị cáo đang thi hành bản án trên tại Nhà tạm giữ Công an Thị xã Phú Mỹ.

Các bị cáo được dẫn giải trước phiên tòa.

- Người bị hại: Ông Phàng Tắc Q, sinh năm 1972 (Vắng mặt). Địa chỉ: Khu phố B, phường C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Phạm Thị Thanh W, sinh năm 1969(Có đơn xin vắng mặt); Địa chỉ: Tổ 12, Khu phố B, phường C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

2. Ông Mai Đức D, sinh năm 1957 (Vắng mặt); Địa chỉ: Khu phố B, phường C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

3. Bà Thị Z, sinh năm 1976 (Có mặt); Địa chỉ: Tổ 12, Khu phố B, phường C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

- Người làm chứng:

1.Ông Nguyễn Anh T, sinh năm 1997 (Vắng mặt); Địa chỉ: Tổ 12, Khu phố B, phường C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu

2.Ông Trần Quốc E, sinh năm 1993 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 1C, xã N, Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 30/01/2018, vợ chồng ông Phàng Tắc Q, sinh năm 1972 và bà Phạm Thị Thanh W, sinh năm 1969 mời bà S Thị Z, sinh năm 1976, cùng trú tại khu phố B, phường C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đến nhà để giải quyết chuyện góp vốn làm ăn. Trong quá trình nói chuyện thì giữa bà Z với vợ chồng ông Q xảy ra mâu thuẫn nên bà Z đã dùng 01 chiếc dép đang mang dưới chân ném vào mặt ông Q rồi gọi điện thoại cho anh rể là ông Mai Đức D, sinh năm 1956, Trú tại khu phố B, phường C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu (là chồng của bà Thị X) để thông báo việc bị ông Q đánh. Nghe điện thoại của bà Z xong, ông D liền gọi điện thoại nói lại sự việc trên cho con trai ruột là Mai Đức A biết và bảo A đi X tình hình. Khi nghe xong, A liền đi đến quán cà phê KN ở khu phố B, phường C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do Mai Đức (là em ruột của A) đang quản lý để lấy 01 con dao rựa (dài 82 cm, phần lưỡi bằng sắt, có mũi quắm, cán bằng gỗ dài 55 cm) mang theo. Khi A và S đang ở tại quán thì bà Thị X (là mẹ kế của A và S) chạy đến nói hai anh em S, A đóng cửa quán lại để cùng bà đi đến chỗ bà Z xem bà Z bị người khác đánh như thế nào. Nghe vậy, S liền vào kho trong nhà lấy 01 cây chỉa bằng sắt có 03 mũi nhọn mang theo, rồi cùng với bà X và A đi đến nhà ông Q. Khoảng 15 phút sau A, S và bà X có mặt tại nhà ông Q. Lúc này có Nguyễn Anh T (là con trai bà Z) và bà Z đang đứng tại đây. Thấy đông người mang theo hung khí đến nên ông Q đóng cửa cổng ở trong nhà không ra gặp, bà X dùng ca múc nước bẩn ở bên đường tạt vào nhà ông Q và đứng chửi ông Q, ông Q đứng trong nhà dùng ná thun bắn ra trúng vào ngực S. A và S liền dùng hung khí mang theo đập phá cửa cổng của nhà ông Q. Hai bên lời qua tiếng lại được khoảng 20 phút thì bà X, bà Z và Nguyễn Anh T bỏ về trước. Khi A và S chuẩn bị lên xe đi về thì ông Q mở cửa chạy ra dùng ná thun bắn trúng vào đầu A. A và S quay lại đuổi theo ông Q, A dùng rựa chém vào tay phải và đầu của ông Q, S dùng chỉa sắt đâm vào lưng của ông Q gây thương tích cho ông Q. Sau đó A và S lên xe rời khỏi hiện trường, còn ông Q được người dân đưa đi cấp cứu tại Phòng khám đa khoa C.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số:110/TgT ngày 26/4/2018 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận thương tích đối với ông Q như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- 01 vết thương vùng đỉnh phải và 01 vết thương tích vùng lưng, lành thương tích tốt.

- 01 vết thương mặt sau khuỷu phải, gãy mõm khuỷu, đã phẩu thuật kết hợp xương gãy, hiện còn dụng cụ kết hợp xương, gập duỗi cẳng tay hạn chế ( được trong khoảng từ 45 đến 90 độ)

2. Về vật gây thương tích, chiều hướng tác động, cơ chế gây nên thương tích:

- Thương tích 1: có thể được gây ra do sự tác động tương hỗ của vật cứng có cạnh sắc hoặc vật rắn tầy, tác động vào vị trí vết thương tích theo chiều hướng từ trên xuống dưới.

- Thương tích 2: có thể được gây ra do sự tác động tương hỗ của vật cứng sắc nhọn hoặc vật cứng nhọn, tác động vào vị trí vết thương theo chiều hướng từ sau ra trước.

- Thương tích 3: Phù hợp với tổn thương cơ bản là vết “chém hay băm bổ”, được gây ra do sự tác động của vật có diện rộng hoặc có trọng lượng lớn tác động với lực mạnh vào cơ thể như dao rựa, dao phay, búa, rìu, tác động vào vị trí vết thương tích theo chiều hướng từ sau ra trước.

3. Về tỉ lệ thương tích tật của từng vết thương tích:

- THưƠNG tích 1: có tỉ lệ thương tích tật là 08%

- THưƠNG tích 2: có tỉ lệ thương tích tật là 01%

- THưƠNG tích 3: có tỉ lệ thương tích tật là 32%

Tỉ lệ tổn thương tích cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 32%.

Về vật chứng vụ án: 01 cây dao rựa dài 82 cm, phần lưỡi bằng sắt, có mũi quắm, cán bằng gỗ dài 55 cm là hung khí mà A đã dùng gây thương tích cho ông Q do A tự nguyện giao nộp (Vật chứng trên đã được chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ bảo quản, chờ xử lý).Đối với 01 cây chĩa bằng sắt có 03 mũi nhọn mà S sử dụng để gây thương tích cho ông Q, sau khi gây án xong S đã bán phế liệu nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phú Mỹ không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Mai Đức S, Mai Đức A đã tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường cho ông Q với số tiền là 70.000.000đ ( bảy mươi triệu đồng). Ông Q đã nhận đủ số tiền trên, không yêu cầu gì thêm và có đơn xin bãi nại, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo A, S.

Bản cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 16/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã truy tố Mai Đức A và Mai Đức S về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Quan điểm luận tội của Kiểm sát viên:

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và phát biểu luận tội, phân tích hành vi phạm tội của các bị cáo, hậu quả do các bị cáo gây ra, cũng như đặc điểm nhân thân của các bị cáo. Đề nghị, Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Mai Đức A, Mai Đức S phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Đối với bị cáo A: đề nghị áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo A từ 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng - đến 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. 

Đối với bị cáo S: đề nghị áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51,Điều 56, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo S từ 05(Năm) năm - đến 06 (Sáu) năm tù.Tổng hợp hình phạt của bản án này và bản án số 123/2018/HS-ST ngày 29/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành (Nay là thị xã Phú Mỹ).

Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 cây dao rựa dài 82 cm, phần lưỡi bằng sắt, có mũi quắm, cán bằng gỗ dài 55 cm.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Phàng Tắc Q không có yêu cầu gì, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì.

* Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa: Các bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai của mình tại cơ quan điều tra và khai nhận toàn bộ hành vi trái pháp luật của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử X xét giảm nhẹ hình phạt.

- Lời nói sau cùng của của bị cáo A và bị cáo S: Trong thời gian bị giam, các bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin Hội đồng xét xử X xét giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Công an thị xã Phú Mỹ, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng nêu trên. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Xét lời khai của bị cáo Mai Đức S và Mai Đức A tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó đã xác định được khoảng 14 giờ 30 phút ngày 30/01/2018, tại nhà của ông Phàng Tắc Q khu phố B, phường C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Mai Đức A đã có hành vi dùng 01 cây dao rựa dài 82 cm, phần lưỡi bằng sắt, có mũi quắm, cán bằng gỗ dài 55 cm chém vào tay phải và đầu của ông Q; Mai Đức S dùng 01 cây chĩa bằng sắt có 03 mũi nhọn đâm vào lưng của ông Q. Căn cứ vào Kết luận giám định số 110/TgT ngày 26/4/2018 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã xác định tỷ lệ tổn thương tích cơ thể do thương tích gây ra đối với ông Q là 32%. Việc giám định này đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Do đó, Kết luận giám định Pháp y về thương tích nêu trên là hợp pháp.

Vì vậy, hành vi của các bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự. Các bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm gây tổn hại sức khỏe cho ông Q nên hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Trong vụ án này, các bị cáo đã có hành vi cố ý sử dụng 01 con dao rựa và chỉa sắt là loại hung khí nguy hiểm để gây thương tích cho ông Q và hậu quả xảy ra là rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, để có cơ sở khi quyết định hình phạt cần xem xét đến vai trò và mức độ phạm tội của từng bị cáo như sau:

[3.1] Trước khi thực hiện tội phạm thì giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ cụ thể mà chỉ mang tính bột phát, nhất thời. Do đó, các bị cáo phạm tội không thuộc trường hợp có tổ chức mà chỉ tham gia với vai trò là đồng phạm giản đơn.

[3.2] Đối với bị cáo Mai Đức A là người được ông D thông báo trực tiếp việc mâu thuẫn giữa bà Z và ông Q, sau đó A đến quán cà phê của S để lấy dao rựa mang theo, bị cáo cũng là người cùng dao rựa chém vào tay phải và đầu của ông Q tỷ lệ tổn thương tích cơ thể do A gây ra đối với ông Q là 31% nên cần phải có mức hình phạt tù thật tương xứng để nhằm mục đích răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

[3.3] Đối với bị cáo Mai Đức S là người trực tiếp dùng dùng chỉa sắt đâm vào lưng của ông Q tỷ lệ tổn thương tích cơ thể do S gây ra đối với ông Q chỉ là 01% .

[4] Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi sự việc xảy ra, các bị cáo đã vận động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông Q và đã được ông Q làm đơn xin bãi nại. Do đó, các bị cáo được áp dụng điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo A có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện tác động gia đình khắc phục hậu quả bồi thường thiệt hại, người bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên xét thấy xử phạt bị cáo mức đầu của khung hình phạt là phù hợp.

Bị cáo S là người có nhân thân xấu, nhưng thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện tác động gia đình khắc phục hậu quả bồi thường thiệt hại, người bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên xét thấy xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt là phù hợp.

Ngoài ra, việc dẫn đến hành vi phạm tội của các bị cáo cũng có một phần lỗi của người bị hại vì đã chủ động dùng ná thun tự chế bắn trúng vào ngực của S. Khi S và A bỏ về thì ông Q lại tiếp tục dùng ná thun tự chế bắn vào hai bị cáo nên hai bị cáo mới phản kháng quay lại gây thương tích cho ông Q. Vì thế cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Q không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thêm nên không giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Mai Đức D không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với ông Phàng Tắc Q, trong vụ việc này đã có hành vi dùng ná bắn đạn đá trúng vào người của A và S không gây thương tích nên không cấu thành tội phạm, nhưng hành vi trên là vi phạm pháp luật hành chính nên ngày 05/11/2018, công an Thị xã Phú Mỹ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Q về hành vi “Đánh nhau”, được quy định tại điểm a, khoản 2, điều 5 Nghị định 167/2013-NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ với mức phạt tiền là 750.000đ (bảy trăm năm mươi ngàn đồng).

Đối với ông Mai Đức D, bà Z, quá trình điều tra ông D, bà Z đều khai nhận không có hành vi xúi giục hay kêu gọi A và S đến gây thương tích cho ông Q, việc A và S gây thương tích cho ông Q là tự ý của A và S thực hiện nên không có cơ sở xử lý đối với ông D, bà Z.

Riêng bà Thị X hiện nay không có mặt tại địa phương nên cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Phú Mỹ chưa tiến hành lấy lời khai được. Khi nào làm việc được với bà X sẽ xem xét xử lý sau.

[7] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 cây dao rựa dài 82 cm, phần lưỡi bằng sắt, có mũi quắm, cán bằng gỗ dài 55 cm là phương tiện mà bị cáo A dùng để gây thương tích cho ông Q

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Mai Đức A, Mai Đức S phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Mai Đức S 04 (Bốn) năm tù.Thời hạn tù tính từ ngày 28/3/2018.

- Căn cứ Điều 56 Bộ luật hình sự: Tổng hợp hình phạt của bản án số 22/2019/HS-ST ngày 27/2/2019 và hình phạt 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù của bản án số 123/2018/HS-ST ngày 29/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành (Nay là thị xã Phú Mỹ) thì tổng hình phạt của cả hai bản án bị cáo phải chấp hành là: 06(Sáu) năm 06(Sáu) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 28/3/2018.

- Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51,Điều 54, Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Mai Đức A 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/5/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên xử: tịch thu tiêu hủy 01 cây dao rựa dài 82 cm, phần lưỡi bằng sắt, có mũi quắm, cán bằng gỗ dài 55 cm (Vật chứng trên đã được chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ bảo quản theo biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử ngày 18/4/2018)

3. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Phàng Tắc Q và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Mai Đức D không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không X xét.

4. Về án phí : Buộc bị cáo Mai Đức A và Mai Đức S mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, đương sự có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/HS-ST ngày 27/02/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:22/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về