Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH N

BẢN ÁN 22/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện V, tỉnh N đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 76/2018/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2018 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2018/QĐXXST – HNGĐ, ngày 05 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Hồng P, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Thôn H, xã G, huyện V, tỉnh N.

Bị đơn: Ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1956.

Địa chỉ: Thôn H, xã G, huyện V, tỉnh N. (Bà P và ông T đều có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 05/6/2018, các bản tự khai và biên bản hòa giải cũng như trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thị Hồng P trình bầy: Bà và ông Nguyễn Thành T được tự do tìm hiểu, trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 17/8/2001 tại UBND phường 1, thị xã B, tỉnh L. Sau khi kết hôn vợ chồng bà chung sống với nhau tại thị xã B, tỉnh L. Vợ chồng bà chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu do tính tình không hợp, kinh tế gia đình khó khăn, ông T thường xuyên rượu chè chửi bới bố mẹ bà và không quan tâm đến vợ con; đến cuối năm 2016 bà và các con về sống tại thôn H, xã G, huyện V, tỉnh N là quê của bố mẹ đẻ ra bà. Đầu năm 2018 thì ông T về sống chung với mẹ con bà, nhưng tính tình không thay đổi. Đến nay bà xác định tình cảm vợ chồng giữa bà và ông T không còn, mâu thuẫn không khắc phục được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên bà đề nghị Tòa án nhân dân huyện V giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Thành T.

Về con chung bà P trình bày: Bà và ông T có 02 con chung cháu lớn tên là

Nguyễn Anh T1, sinh ngày 17/9/2003, cháu nhỏ tên là Nguyễn Lê Anh T2, sinh ngày 08/5/2005. Hiện nay, ông T là người trực tiếp nuôi dưỡng các cháu, nếu được ly hôn, bà P đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Lê Anh T2, còn ông T nuôi dưỡng cháu Nguyễn Anh T1, không ai phải đóng góp tiền nuôi con chung cho ai.

Về tài sản chung và công nợ chung: Bà P xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Trong các bản tự khai, biên bản hòa giải, cũng như tại phiên tòa, bị đơn là ông Nguyễn Thành T trình bày: Ông thừa nhận việc kết hôn giữa hai người như bà P đã trình bày. Về tình trạng hôn nhân, sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc. Tuy nhiên, đến năm 2011 bà P làm ăn bị thua lỗ, nợ nần từ đó đôi khi vợ chồng ông cũng xẩy ra mâu thuẫn với nhau nhưng đều là những mâu thuẫn nhỏ nhặt không đáng kể và vợ chồng đều tự làm hòa được với nhau, vợ chồng phải bán hết tài sản để trả nợ. Đến cuối năm 2016 gia đình chuyển về sống tại thôn H, xã G, huyện V, tỉnh N là quê của bố mẹ đẻ ra bà P để ở. Đến nay bà P làm đơn xin ly hôn, ông nhận thấy vợ chồng ông không có mâu thuẫn gì lớn dẫn đến phải ly hôn, tình cảm vợ chồng vẫn còn, nên ông không đồng ý ly hôn, đề nghị Tòa án kiên trì hòa giải để vợ chồng ông quay về đoàn tụ với nhau.

Về con chung, các thông tin liên quan đến con chung ông T thừa nhận bà P trình bày như nêu trên là đúng. Nếu vợ chồng ông phải ly hôn, thì ông xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu bà P phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn.

Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Ông T xác định không có nên không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là ông Nguyễn Thành T có địa chỉ tại thôn H, xã G, huyện V, tỉnh N. Vì vậy Tòa án nhân dân huyện V áp dụng Điều 28; khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự để thụ lý giải quyết vụ án là đúng với quy định của pháp luật.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà Lê Thị Hồng P và ông Nguyễn Thành T trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường 1, thị xã B, tỉnh L vào ngày 17/8/2001. Đây là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Tình trạng hôn nhân giữa bà Phấn và ông T như trình bầy của bà P và ông T, tại các bản tự khai, biên bản hòa giải, cũng như tại phiên tòa đã thể hiện: Sau khi kết hôn, vợ chồng bà P và ông T sống chung với nhau tại thị xã B, tỉnh L. Bà P cho rằng tình cảm vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2013, nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do tính tình không hợp, ông T thường xuyên rượu chè chửi bới bố mẹ bà và không quan tâm đến vợ con, nhưng tại bản tự khai ngày 11/09/2018 và tại phiên tòa bà P khẳng định giữa bà và ông T không sẩy ra chuyện đánh cãi chửi nhau và hiện nay hai cháu Nguyễn Anh T1 và Nguyễn Lê Anh T2 đang do ông T là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục còn bà P chỉ cung cấp tiền cho các cháu ăn học. Điều này phù hợp với đơn đề nghị, xác nhận ngày 09/10/2018 do ông T giao nộp cho Tòa án có xác nhận của bố đẻ bà P, trưởng thôn H, chi hội phụ nữ thôn H và UBND xã G, đều không đồng ý để bà P và ông T ly hôn, mong ông T bà P giữ gìn hạnh phúc gia đình, đoàn tụ để nuôi dạy các con trưởng thành. Như vậy, có thể khẳng định giữa bà P và ông T có phát sinh mâu thuẫn, nhưng chỉ là tạm thời chưa đến mức trầm trọng không thể khắc phục được, bà P và ông T có khả năng sửa chữa những mâu thuẫn đó. Hơn nữa ông T vẫn còn yêu thương bà P, bỏ qua mọi việc để con có bố mẹ. Không thể xem lý do mà bà P nêu trên để chấm dứt mối quan hệ vợ chồng, điều đó trái với đạo lý, lương tâm trách nhiệm. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị Hồng P chưa thỏa mãn các quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị Hồng P để vợ chồng trở lại chung sống đoàn tụ cùng nuôi dạy con cái.

[3]. Về án phí sơ thẩm ly hôn: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bà Lê Thị Hồng P phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

 Xử :

1. Bác đơn khởi kiện xin ly hôn của bà Lê Thị Hồng P đối với ông Nguyễn Thành T.

2. Về án phí sơ thẩm ly hôn: Bà Lê Thị Hồng P phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền 300.000đ bà Phấn đã nộp tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2013/0001075, ngày 12/6/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:22/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về