Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 11/06/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 22/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 11/6/2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 117/2018/TLST- HNGĐ ngày 16/4/2018 về việc: “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15/5/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2018/QĐST – HNGĐ ngày 01/6/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị A, sinh năm 1979;

Nơi ĐKNKTT: Tổ 11, khu 2, phường Cửa Ô, thành phố P, tỉnh Q;

Nghề nghiệp: Lao động tự do, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Hoàng Quốc M, sinh năm 1975;

Nơi ĐKNKTT: Tổ 11, khu 2, phường Cửa Ô, thành phố P, tỉnh Q;

Nghề nghiệp: Lao động tự do, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 08/4/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Trần Thị A trình bày: Tôi và anh Hoàng QuốcM xây dựng gia đình với nhau từ năm 2013 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Cửa Ô, thành phố P, tỉnh Q ngày 27/6/2013, trước khi kết hôn có thời gian tìm hiểu nhau một năm. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung tại nhà của bố mẹ anhM tại tổ 11, khu 2, phường Cửa Ô, thành phố P, tỉnh Q. Quá trình sống chung của vợ chồng bình thường đến tháng 02/2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anhM có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, không còn quan tâm gì đến gia đình, vợ con. Từ khi phát hiện anhM ngoại tình, tôi đã đi thuê nhà ở, tôi và anhM đã sống ly thân từ đó cho đến nay không còn quan hệ gì với nhau nữa. Mâu thuẫn của chúng tôi đã được khu phố hòa giải nhưng không có kết quả, tôi không còn tình cảm gì với anhM nữa tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi ly hôn với anhM để ổn định cuộc sống. Tôi và anhM có một con chung là Hoàng Anh Minh, sinh ngày 09/01/2014, từ khi sống ly thân con chung ở với tôi, anhM không hề có trách nhiệm gì với con. Khi ly hôn, tôi xin được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anhM cấp dưỡng cho con, tôi hiện nay là lao động tự do, mức thu nhập và các điều kiện khác đều đảm bảo cho việc nuôi dưỡng con.Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Đối với bị đơn anh Hoàng QuốcM: Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả đã triệu tập hợp lệ nhiều lần đến trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả để giải quyết yêu cầu ly hôn, nuôi con của chị Trần Thị A đối với anh Hoàng QuốcM  nhưng anh Hoàng QuốcM đều vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán; Hội đồng xét xử đã tiến hành các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn chị Trần Thị A thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân, bị đơn anh Hoàng QuốcM không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân. Đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị A như nêu trên. Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả nhận thấy có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị A. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Cuộc hôn nhân giữa chị Trần Thị A và anh Hoàng QuốcM là hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Cửa Ô, thành phố P, tỉnh Q ngày 27/6/2013. Vợ chồng đã có thời gian sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo chị A trình bày là do anhM ngoại tình, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con; đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Chị A không còn tình cảm với anh M, yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh M để ổn định cuộc sống; anh M, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do nên không rõ quan điểm của anh M về tình trạng hôn nhân của vợ chồng, anhM có còn tình cảm với chị A hay không. Chị A và anh M có một con chung là Hoàng Anh Minh, sinh ngày 09/01/2014, chị A xin được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh M cấp dưỡng cho con, chị A xác định có đủ điều kiện để nuôi dưỡng con chung. Trong suốt quá trình Tòa án giải quyết yêu cầu xin ly hôn của chị A đối với anh M, anh M không có mặt nên không rõ quan điểm của anh M về phần con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Chị A xác định là không có; anh M không có mặt nên không rõ quan điểm của anhM về phần tài sản chung, nợ chung.

[2] Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả đã tiến hành lấy lời khai của bà Nguyễn Thị Dung, sinh năm 1952; trú tại: Tổ 11, khu 2, phường Cửa Ô, thành phố P, tỉnh Q là mẹ đẻ của anh Hoàng QuốcM và tiến hành thu thập chứng cứ tại nơi chị A và anhM cư trú, được bà Nguyễn Thị Dung và đại diện khu phố cung cấp thông tin về tình trạng hôn nhân của chị A và anh M đúng như chị A đã trình bày nêu trên.

[3] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như nêu trên, đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, căn cứ quy định tại các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị A và anhM đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A đối với anhM; đối với yêu cầu xin được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung của chị A, do anhM không có mặt trong quá trình giải quyết vụ án và xét thấy chị A đã là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung trong suốt thời gian vợ chồng sống ly thân nên chấp nhận yêu cầu xin được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung của chị A. Chị A xác định có đủ điều kiện nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anhM cấp dưỡng cho con nên không đề cập. Về tài sản chung, nợ chung: Chị A xác định không có; anhM không có mặt nên không rõ quan điểm của anhM về phần tài sản chung, nợ chung nên không đề cập.

[4] Về án phí: Chị Trần Thị A phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng vào các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Trần Thị A đối với anh Hoàng Quốc M. Chị Trần Thị A được ly hôn với anh Hoàng Quốc M.

Giao cho chị Trần Thị A có trách nhiệm trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Hoàng Anh Minh, sinh ngày 09/01/2014 cho đến khi đủ 18 tuổi. Anh Hoàng Quốc M không phải cấp dưỡng cho con; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị A xác định là không có.

Về án phí: Chị Trần Thị A phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị A đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009966 ngày 13/4/2018 của Chi cục Thi thành án dân sự thành phố Cẩm Phả. Chị A đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Vắng mặt bị đơn, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 11/06/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:22/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về