TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 22/2017/HSST NGÀY 24/11/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 24 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 25/2017/HSST, ngày 20/10/2017 đối với:
1. Bị cáo: Phan Châu L; Sinh ngày: 24/9/1997; Trú tại: ấp Q, xã T, huyện P, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Tài xế lái xe; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông Phan Thanh S, sinh năm 1971 và bà Châu Thị T, sinh năm 1975; Có vợ là Nguyễn Thị Ngọc S; Sinh ngày 02/4/1999; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/8/2017 cho đến nay. (có mặt).
2. Người bị hại: Ông Từ Thanh G; Sinh năm: 1982; Trú tại: ấp S, xã T, huyện P, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt).
3. Người làm chứng:
3.1. Ông Lư Trọng H; Sinh năm: 1989; Trú tại: ấp Q, xã T, huyện P, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt).
3.2. Ông Huỳnh Tấn P; Sinh năm: 1983; Trú tại: ấp Q, xã T, huyện P, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt).
3.3. Ông Phan Tuấn K; Sinh năm: 1946; Trú tại: ấp Q, xã T, huyện P, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt).
3.4. Bà Nguyễn Thị Ngọc S; Sinh năm: 1999; Trú tại: đường P, khóm 1, phường x, thành phố T, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Phan Châu L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng truy tố về hành vi phạm tội như sau: Phan Châu L và ông Từ Thanh G có mối quan hệ họ hàng với nhau. Vào khoảng 15 giờ ngày 28/4/2017 ông G đang xem ông Lư Trọng H, ông Huỳnh Tấn P, ông Nguyễn Văn Đ đang xây nhà mồ cho cha mẹ ông G tại ấp Q, xã T thì nghe trong nhà ông Phan Tuấn K (ông nội của L) có tiếng cự cãi. Lúc này, ông G đi vào xem thì thấy L đang cự cải với ông Kiệt, khi thấy ông G đang đứng nhìn mình thì L đi ra chửi ông G “mày nhìn cái gì, tao chém chết mẹ mày”, ông G không nói gì và đi ra nhà mồ xem ông H, P và Đ làm tiếp. Một lúc sau, L cầm 01 cây dao thái lan và chạy ra tìm ông G, khi thấy L cầm dao thì Nguyễn Thị Ngọc S la lên “chú Giàu ơi, L cầm dao chú chạy đi”, thấy L cầm dao nên ông G bỏ chạy, L rượt theo không kịp nên đi về nhà, trên đường về nhà đã làm rớt cây dao lúc nào ở đâu bị can L không nhớ rõ. Một lúc sau (khoảng 5 phút sau), L tiếp tục cầm cây dao bấm dài khoảng 20cm (cây dao bấm cán dao bằng kim loại màu nâu, lưỡi dao bằng kim loại màu Đ, có một mặt bén, mặt còn lại có hình răng cưa, qua khỏi răng cưa có một mũi nhọn nhô lên) đi ra nhà mồ tìm ông G, ông G đang xem ông H, P và Đ làm thì L cầm dao bằng tay phải đâm 01 cái trúng vào tay trái ông G, ông G bị té xuống và chụp được cây tre dài khoảng 70cm đánh lại L trúng vào tay trái của L (nhưng không gây thương tích cho L), ông G đứng lên chạy và L cầm dao rượt theo, ông G chụp được cây leng dài khoảng 1,3m quơ qua quơ lại nên L bỏ chạy, ông G được ông H đưa đi cấp cứu.
Sau khi nhận được tin báo, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Phú tiến hành xác minh vụ việc và ra quyết định trưng cầu giám định tỷ lệ tổn hại sức khỏe của ông Từ Thanh G. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 135/TgT-PY ngày 07/7/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Sóc Trăng kết luận:
Tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể của Từ Thanh G do thương tích gây nên hiện tại là 13%; Tổn thương gây ảnh hưởng chức năng cẳng tay trái.
Xét thấy, hành vi của Phan Châu L có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Phú ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Phan Châu L về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999) và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với L từ ngày 23/8/2017 cho đến nay.
Tại bản cáo trạng số: 24/QĐ-KSĐT, ngày 20/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng để xét xử Phan Châu L về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 2015).
Tại phiên toà, bị cáo Phan Châu L đã thừa nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như cáo trạng truy tố.
Tại phiên tòa, người bị hại Từ Thanh G đề nghị Hội đồng xét xử: Về trách nhiệm hình sự, xét xử bị cáo theo quy định pháp luật. Về trách nhiệm dân sự, ông G xác định trong quá trình điều tra các bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho ông Khải xong với số tiền là 31.206.203 đồng và tại phiên tòa, ông G không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng đã nêu. Sau khi luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Châu L phạm tội “Cố ý gây thương tích” và áp dụng khoản 2 Điều 104; Điều 33; điểm b, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7, khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Phan Châu L từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Từ Thanh G không yêu cầu bồi thường thiệt hại, nên không đặt ra xem xét. Về vật chứng: Trong quá trình điều tra không thu giữ được vật chứng của vụ án, nên không đặt ra xem xét.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
[1] Tại phiên tòa hôm nay, vắng mặt người làm chứng Lư Trọng H và Huỳnh Tấn P. Xét sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử và tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát, bị cáo, người bị hại không yêu cầu hoãn phiên tòa. Sau khi thảo luận tại phòng xử án, căn cứ vào các điều 192 và 199 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Tại phiên toà, bị cáo Phan Châu L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai trước đây của bị cáo tại cơ quan điều tra và hoàn toàn phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, kết luận giám định, lời khai của người bị hại và người làm chứng. Ngoài ra, sự thật vụ án còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy, đã có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 15 giờ ngày 28/4/2017, xuất P từ việc bị cáo Phan Châu L cải vã với ông nội bị cáo là ông Phan Tuấn Kiệt tại nhà của ông Kiệt thuộc ấp Q, xã T, huyện P, tỉnh Sóc Trăng và ông Từ Thanh G đứng xem, khi thấy ông G đang đứng nhìn thì L đi ra chửi “mày nhìn cái gì, tao chém chết mẹ mày” thì ông G bỏ đi ra coi thợ làm nhà mồ trên phần đất của ông G ở gần đó thì L lấy 01 cây dao loại dao thái lam và chạy đi tìm ông G thì bà Nguyễn Thị Ngọc S là vợ của L la lên và kêu ông G chạy đi, L rượt theo không kịp nên đi về nhà, trên đường về nhà L đã làm rớt cây dao. Sau đó, khoảng 05 phút L tiếp tục lấy cây dao loại dao bấm dài khoảng 20cm, lưỡi dao bằng kim loại, có một mặt sắc bén và mặt còn lại có hình răng cưa đi ra nhà mồ tìm ông G, trong lúc ông G đang xem thợ làm thì L cầm dao bằng tay phải đâm 01 cái trúng vào tay trái ông G gây thương tích, ông G bị té xuống và chụp được cây tre dài khoảng 70cm đánh lại trúng vào tay trái của L, nhưng không gây thương tích gì thì ông G đứng lên bỏ chạy và L cầm dao rượt theo, ông G chụp được cây leng dài khoảng 1,3m quơ qua quơ lại nên L bỏ chạy, sau đó ông G được ông H đưa đi cấp cứu.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 135/TgT-PY ngày 07/7/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Sóc Trăng kết luận: Tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể của Từ Thanh G do thương tích gây nên hiện tại là 13%; Tổn thương gây ảnh hưởng chức năng cẳng tay trái.
[4] Bị cáo Phan Châu L là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đã có hành vi cố ý dùng dao có lưỡi bằng kim loại sắc bén đâm người bị hại Từ Thanh G gây thương tích và gây tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 13% mặc dù giữa bị cáo và người bị hại không có mâu thuẫn gì, nên bị cáo Giàu đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” và thuộc trường hợp “Dùng hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm a, điểm i khoản 1 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999, nên Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Lphạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm b khoản 1, điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7 của Bộ luật hình sự 2015 thì hành vi của bị cáo Phan Châu L phạm tội tương ứng theo quy định tại khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ 02 năm đến 05 năm là có lợi cho bị cáo, nên Hội đồng xét xử áp dụng đối với bị cáo.
[5] Xét khi dùng dao đâm người bị hại Từ Thanh G, mục đích của bị cáo Phan Châu L là nhằm gây thương tích chứ không mong muốn tước đoạt tính mạng của người bị hại. Vì vậy, việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú truy tố bị cáo Phan Châu L về tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ và đề nghị xét xử bị cáo theo khung hình phạt được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999 và khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Tội phạm do bị cáo Phan Châu L gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sức khỏe của công dân mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân. Do vậy, với hành vi phạm tội đã thực hiện, bị cáo Phan Châu L phải bị trừng trị đích đáng theo quy định pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng một mức án tù thật nghiêm khắc đối với bị cáo để có tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
[7] Tuy nhiên, xét về nhân thân bị cáo Phan Châu L nhận thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho người bị hại số tiền là 31.206.203 đồng, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có ông nội là ông Phan Tuấn Kiệt (tên gọi khác: Phan Ngọc Hưởng) là người có công với Nhà nước. Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử sẽ áp dụng điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 để quyết định giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Ngoài ra không còn tình tiết nào khác để xem xét giảm nhẹ thêm cho bị cáo.
[8] Từ những tình tiết đã phân tích nêu trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 1999 để quyết định hình phạt đối với bị cáo là chưa tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[9] Về bồi thường thiệt hại: Tại phiên tòa, người bị hại ông Từ Thanh G và bị cáo Phan Châu L thống nhất xác định trong quá trình điều tra bị cáo Lvà gia đình đã bồi thường thiệt hại cho ông G xong với số tiền là 31.206.203 đồng và đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận và ông G không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên không đặt ra xem xét.
[10] Về xử lý vật chứng: 01 (Một) cây dao loại dao bấm dài khoảng 20cm, lưỡi bằng kim loại, sau khi gây thương tích cho người bị hại xong thì bị cáo Lđã làm rớt cây dao nhưng không biết rớt ở đâu, cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Long Phú đã tiến hành truy tìm, nhưng không thu giữ được vật chứng của vụ án, nên không đặt ra xem xét.
[11] Về án phí: Căn cứ Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2004; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phan Châu L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố: Bị cáo Phan Châu L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
[2] Áp dụng khoản 2 Điều 104; Điều 33; điểm b, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm b khoản 1, điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7, khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Phan Châu L.
Xử phạt bị cáo Phan Châu L 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23 tháng 8 năm 2017.
[3] Về bồi thường thiệt hại:
Người bị hại Từ Thanh G không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại, nên không đặt ra xem xét.
Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Phan Châu L đã bồi thường xong cho người bị hại Từ Thanh G số tiền là 31.206.203 đồng (Ba mươi mốt triệu, hai trăm lẽ sáu nghìn, hai trăm lẽ ba đồng).
[4] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Long Phú đã tiến hành truy tìm, nhưng không thu giữ được vật chứng của vụ án, nên không đặt ra xem xét.
[5] Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử buộc bị cáo Phan Châu L chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[6] Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
[7] Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án 22/2017/HSST ngày 24/11/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 22/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về