TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PA, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 22/2017/HSST NGÀY 12/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 12 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 20/2017/HSST-QĐ ngày 30 tháng 5 năm 2017 đối với bị cáo:
Bùi Phi L, sinh năm 1986, tại huyện Phú T, tỉnh An Giang;Nơi ĐKHKTT: Phú Đức A, Phú Thạnh, huyện Phú T, tỉnh An Giang; Nơi cư trú: Buôn H’L, xã Chư Rc, huyện Krông P, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hoá: không có học; Con ông Bùi Văn S và bà Đặng Thị N; Bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Ksor H’H, sinh năm 1986; Con: Ksor Kh, sinh năm 2015; cùng trú tại buôn H’L, xã Chư Rc, huyện Krông P, tỉnh Gia Lai; Tiền án,tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/3/2017, đến ngày 21/3/2017 chuyển sang tạm giam và giam liên tục cho đến nay và có mặt tại phiên tòa.
-Người bị hại: bà Rah Lan H’M, sinh năm 1972
Trú tại: buôn H’L, xã Chư Rc, huyện Krông P, tỉnh Gia Lai (Có mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Bùi Phi L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông P, tỉnh Gia Lai truy tố về hành vi phạm tội cụ thể như sau: Khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 14/3/2017, bà Rah Lan H’M, sinh năm 1972, trú tại: buôn H’L, xã Chư Rc uống rượu cùng chồng là ông Ksor P và chị họ là bà Rah Lan H’L tại nhà. Sau khi uống hết 1,5 lít rượu thì bà Rah Lan H’L ra về, vợ chồng bà Rah Lan H’M nằm ngủ trên nền xi măng tại phòng khách gần cửa ra vào, cửa không khóa. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Bùi Phi L sau khi uống rượu cùng với bạn bè trên đường về buôn H’L, xã Chư Rc. Khi đi qua nhà bà H’M thấy điện sáng, cửa mở nên L đi vào nhà thì phát hiện vợ chồng bà H’M đang ngủ dưới nền nhà, bà H’M mặc váy, trên cổ có đeo dây chuyền vàng. L đã nảy sinh ý định trộm cắp nên đến gần bà H’M, ngồi xuống dùng hai tay cầm sợi dây chuyền và tìm móc khóa để mở, trong lúc xoay để mở khóa thì sợi dây chuyền bị đứt nên L kéo nhẹ và bỏ dây chuyền vào trong túi quần dài bên phải. Sau khi lấy dây chuyền, thấy bà H’M ngủ say nên L đã nảy sinh ham muốn dục vọng muốn giao cấu với bà H’M, L đang giao cấu thì bà H’M tỉnh dậy phát hiện la lên, gọi chồng đuổi theo không kịp nên về nhà ngủ. L vùng dậy bỏ chạy về hướng nhà mình xuống sông B trốn rồi lấy dây chuyền chôn dưới gốc cây cách nhà khoảng 10m. Khoảng 02 giờ sáng ngày 15/3/2017 L về nhà vợ ngủ cho đến sáng dậy đi bốc vác hàng hóa thuê.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐG ngày 17/3/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Krông P xác định 01 sợi dây chuyền vàng 24k(loại dây trúc), có trọng lượng 09 phân- 09 li – 05zem, vàng 9T8, hiệu KL, có giá là 3.650.000đ
Tại bản cáo trạng số 26Ctr-VKS ngày 30 tháng 5 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông P, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Bùi Phi L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.
*Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Bùi Phi L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án; đồng thời cũng phù hợp với nội dung cáo trạng đã mô tả. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Bùi Phi L đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 138 – Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông P, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo về tội danh trên là có căn cứ pháp luật.
Bị cáo Bùi Phi L là người bình thường nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì ham lợi bất chính nên đã lấy trộm của bà H’M 01 sợi dây chuyền vàng 24k (loại dây trúc), có trọng lượng 09 phân- 09 li – 05zem, vàng 9T8, hiệu KL, có giá là 3.650.000đ
Hành vi của bị cáo Bùi Phi L đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân đã được luật hình sự quy định và bảo vệ. Rõ ràng hành vi phạm tội của bị cáo là sai trái với đường lối, chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta, đã gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho mọi người, làm mất an ninh trật tự trên địa bàn.
Trong phần tranh luận đại diện viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử kết án bị cáo Bùi Phi L phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; Điểm g,h,p khoản 1 Điều 46 - Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Bùi Phi L từ 06 tháng đến 09 tháng tù; bị cáo phải bồi thường cho người bị hại bà H’M với số tiền là 1.000.000đ; Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm trong hình sự theo quy định của pháp luật.
Đối với hành vi của bị cáo L giao cấu trái với ý muốn của bà H’M thì bà H’M đã thỏa thuận với bị cáo Long giải quyết theo phong tục người Jrai và làm đơn bãi nại không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi của bị cáo L nên không có đủ căn cứ khởi tố bị cáo L về tội hiếp dâm theo quy định tại khoản 1 Điều 111 của Bộ luật hình sự là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bà H’M không yêu cầu bị cáo Bùi Phi L bồi thường danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm trong cùng vụ án này nên hội đồng xét xử không đề cập đến.
-Về trách nhiệm hình sự: Bị cáo Bùi Phi L là người bình thường, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đã thực hiện hành vi nguy hiểm và gây hậu quả xấu cho xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho mọi người, làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.
Xét tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa. Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại không lớn, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại Điểm g,h,p Khoản 1 Điều 46 – Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa người bị hại đề nghị hội đồng xét xử xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật Xét quan điểm luận tội của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận
-Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo Bùi Phi L đã chiếm đoạt của bà Rah Lan H’M 01 sợi dây chuyền vàng 24k (loại dây trúc), có trọng lượng 09 phân- 09 li – 05zem, vàng 9T8, hiệu KL, có giá là 3.650.000đ. Sau khi tội phạm bị phát giác thì cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông P đã tạm giữ sợi dây chuyền vàng 24k trên, sau đó đã trả lại sợi dây chuyền vàng 24k cho bà Rah Lan H’M. Tại phiên tòa bà H’M yêu cầu bị cáo Bùi Phi L phải bồi thường cho bà số tiền làm lại dây chuyền bị đứt là 1.000.000đ vàđược bị cáo Bùi Phi L đồng ý. Xét thấy sự thoả thuận này là hoàn toàn thể hiện ý chí tự nguyện giữa bị cáo và người bị hại, đồng thời cũng không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận trong bản án và buộc bị cáo phải thực hiện.
Về án phí: Bị cáo Bùi Phi L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ và phải chịu án phí dân sự trong hình sự là 300.000 theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Bùi Phi L phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”
1/Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g,h,p khoản 1 Điều 46 - Bộ luật hình sự:
-Xử phạt bị cáo Bùi Phi L 08 (tám) tháng tù. Thời hạn phạt tù được tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 15/3/2017.
2/Áp dụng Điều 42 của Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự năm 2015: Công nhận sự tự nguyện thoả thuận giữa bị cáo Bùi Phi L và bà Rah Lan H’M cụ thể như sau: bị cáo Bùi Phi L phải bồi thường cho bà Rah Lan H’M số tiền làm lại dây chuyền vàng bị đứt là 1.000.000đ (một triệu đồng)
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi đối với số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian của số tiền còn phải thi hành án
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự
3/Căn cứ khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Khoản 1 Điều 23 Nghi quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Bị cáo Bùi Phi Long phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) và phải chịu án phí dân sự trong hình sự là 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.
Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 12/7/2017 để yêu cầu Toà án Nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.
Bản án 22/2017/HSST ngày 12/07/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 22/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Krông Pa - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về