Bản án 22/2017/HNGĐ-ST ngày 31/08/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 22/2017/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31/8/2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tam Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 109/2017/TLST-DS ngày 17 tháng 4 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2017/QĐXXST-DS, ngày 03 tháng 8 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2017/QĐST-HNGĐ ngày 18/8/2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thanh H; Sinh năm: 1988.

Địa chỉ: Ấp Y, xã T, huyện B, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Anh Ngô Văn L; Sinh năm: 1987.

Địa chỉ: Ấp K, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Chị H có mặt, anh L vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 14/3/2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Phan Thanh H trình bày:

Về hôn nhân: Chị H và anh L sống chung với nhau từ năm 2009, có đăng ký kết hôn (giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 11/2009) tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp ngày 03/3/2009. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu cũng rất hạnh phúc, tuy nhiên đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn và vợ chồng đã ly thân từ đó đến nay.

Nay nhận thấy mâu thuẫn giữa hai vợ chồng đã quá trầm trọng, tình cảm đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L.

Về con chung: Trong thời gian chung sống thì vợ chồng có 01 người con chung là cháu Ngô Ngọc T, sinh ngày: 28/4/2010, hiện cháu T đang sống chung với chị H. Khi ly hôn chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu T, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị H trình bày không có.

- Bị đơn anh Ngô Văn L vắng mặt tại phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đều chấp hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến, kiến nghị gì về phần tố tụng.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H.

Trong quá trình thu thập chứng cứ: Ngoài bản sao trích lục kết hôn, bản sao giấy khai sinh chị H cung cấp kèm hồ sơ khởi kiện thì trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có thu thập lời khai của ông Ngô Văn L (cha của anh Ngô Văn L) và Tờ tự khai của cháu Ngô Ngọc T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Xét việc chị Phan Thanh H khởi kiện xin ly hôn là vụ án dân sự và bị đơn anh Ngô Văn L hiện nay đang trú tại xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì Toà án nhân dân huyện Tam Nông giải quyết là đúng thẩm quyền.

Bị đơn anh Ngô Văn L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt nên xét xử vắng mặt anh L là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh L tự nguyện sống chung với nhau từ năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 03/3/2009; do đó hôn nhân giữa chị H và anh L là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, theo chị H trình bày thì vợ chồng đã có khoảng thời gian chung sống hạnh phúc tuy nhiên đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn và đã ly thân với nhau. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh L (do ông Ngô Văn L – là cha của anh L nhận thay). Tại biên bản lấy lời khai, ông L xác định L hiện nay làm thuê ở chợ Bình Điền, sau khi ông nhận Thông báo thụ lý, hòa giải, công khai chứng cứ của Tòa án thì ông có thông báo cho L biết, tuy nhiên do bận công việc nên L không về được.

Tại phiên Tòa hôm nay Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào lời trình bày của chị H thì giữa vợ chồng có sự bất hòa và đã ly thân từ năm 2011 đến nay nhưng vẫn không hàn gắn được. Khi Tòa án thụ lý vụ án ly hôn theo yêu cầu của chị H, thì anh L đã biết nhưng anh không đến Tòa án để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu xin ly hôn của chị H là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về quan hệ con chung: Trong thời gian chung sống thì vợ chồng có 01 người con chung là cháu Ngô Ngọc T, sinh ngày: 28/4/2010, hiện cháu T đang sống chung với chị H. Khi ly hôn chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu T, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Theo ý kiến của cháu T thì trong trường hợp cha mẹ ly hôn, cháu muốn được sống với mẹ. Do trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án anh L không có ý kiến, tại phiên tòa hôm nay anh vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cháu T cho bà D được nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về tài sản chung: Chị H trình bày vợ chồng tự thỏa thuận, trong quá trình giải quyết vụ án anh L không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về nợ chung: Chị H trình bày không có, trong quá trình giải quyết vụ án anh L không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, chị Phan Thanh H được ly hôn với anh Ngô Văn L.

2/ Về quan hệ con chung: Giao cháu Ngô Ngọc T (sinh ngày: 28/4/2010 – hiện đang sống chung với chị H) cho chị Phan Thanh H được tiếp tục nuôi dưỡng, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con (do chị H không yêu cầu).

Anh Ngô Văn L được quyền đến thăm nom và chăm sóc cháu T, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con khi có yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên đương sự, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, hạn chế quyền thăm con của người không trực tiếp nuôi con.

3/ Về án phí: Chị Phan Thanh H phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai số 09391 ngày 17/4/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp. Chị H đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Án xử công khai, có mặt nguyên đơn. Báo cho nguyên đơn được biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay. Đối với bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

407
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2017/HNGĐ-ST ngày 31/08/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về