TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM – TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 221/2020/HSST NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 249/2020/TLST-HS ngày 08/10/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 216/2020/QĐXXST-HS ngày 14/10/2020 đối với các bị cáo:
1/ Nguyễn Thanh T (tên gọi khác: Tèo), sinh năm: 1989, tại: An Giang. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa.
Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: Không biết chữ. HKTT: Ấp V, xã V, huyện T, tỉnh An Giang.
Con ông Nguyễn Văn N (chết) và bà Nguyễn Thị B Gia đình bị cáo có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ 06 trong gia đình.
Chung sống như vợ chồng với chị Ngô Thị Đèo, sinh năm 1990 Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2018.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 27/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Trảng Bom.
2/ Lê Minh T1. (tên gọi khác: Bống), sinh năm 1990, tại: Cần Thơ.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: không biết chữ. HKTT: Ấp T B, xã T, huyện T, Thành phố Cần Thơ.
Con ông Lê Minh T (đã chết) và bà Bùi Thị H.
Gia đình bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình.
Có vợ Nguyễn Thị B, sinh năm: 1987 .
Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2011.
- Tiền án, tiền sự: Không.
- Bị cáo bị bắt quả tang ngày 27/7/2020 hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện Trảng Bom.
Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 1990 HKTT: Tổ 24, khu phố 4, phường Tân H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
(các bị cáo có mặt, người làm chứng vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thanh T và Lê Minh T là các đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/7/2020, Thùy điều khiển xe mô tô 60B1-218.93 đến phòng trọ của T tại tổ 1, ấp L, xã H 3, huyện T góp tiền để Tuấn đi mua ma túy về cùng sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện kiếm lời. T và T1 thống nhất mỗi người góp 1.250.000 đồng để đưa cho T đi mua ma túy, do T1 chỉ còn 1.000.000 đồng (một triệu đồng) nên T cho Thùy mượn thêm 250.000 đồng, để đủ số tiền 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng). Tuấn điều khiển xe mô tô biển số: 60F1-156.26 đến khu vực cầu Đồng Nai gặp một người đàn ông tên L (không rõ tên thật, địa chỉ) nhờ L dẫn đi mua ma túy. L dẫn Tuấn đi đến khu du lịch Suối Tiên thuộc quận 9, thành phố Hồ Chí Minh, gặp một thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch), mua 01 (một) gói ma túy đá với giá 2.500.000 đồng. T cất giấu ma túy trong người rồi đem về phòng trọ, gọi điện thoại cho T1 đến để cùng phân chia ma túy. Khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày, T1 điều khiển xe mô tô 60B1-218.93 đến phòng trọ của T. T và T1 lấy một ít ma túy ra cùng sử dụng rồi cùng nhau phân chia số ma túy còn lại vào 09 (chín) gói nylon hàn kín lại, mục đích là để cùng sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện khác để kiếm lời. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày lực lượng Công an xã HN3 kiểm tra hành chính phát hiện T và T1 đang cất giấu số ma túy trên tại khe cửa sổ trên gác nên tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang.
Vật chứng thu giữ:
- 09 (chín) gói nylon hàn kín, chứa chất tinh thể màu trắng (đã niêm phong, ký hiệu M), ngoài phong bì có dấu vân tay của Nguyễn Thanh T, Lê Minh T1 và hình dấu tròn màu đỏ của Công an xã HN3,huyện TB.
- 01 (một) cân tiểu ly màu đen.
- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.
- 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Wave S màu đen biển số: 60B1-218.93 của Thùy.
- 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu bạc biển số: 60F1-156.26 của T.
- 01 (một) ĐTDĐ hiệu Masstel màu đỏ; 01 (một) ĐTDĐ Samsung màu xám; 01 (một) ĐTDĐ Oppo màu trắng hồng (không xác định được số điện thoại) của T:
- 01 (một) ĐTDĐ Oppo màu xám, số sim: 0931.576.907 của T1.
Tại Bản kết luận giám định số 1524/KLGĐ-PC09 ngày 05/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận mẫu chất tinh thể màu trắng được niêm phong, gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 4,5896 gam loại: Methamphetamine Ngày 05/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thanh T và Lê Minh T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” để điều tra làm rõ hành vi phạm tội.
Tại bản Cáo trạng số 265/CT-VKS-TB ngày 07/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố Nguyễn Thanh T và Lê Minh T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng đồng thời áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt các bị cáo Nguyễn Thanh T1 từ 04 (bốn) năm đến 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Bị cáo Lê Minh T1 từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng đến 04 (bốn) năm tù.
+ Đối với 01(một) phong bì niêm phong chứa ma túy sau giám định số: 1524/KLGÐ-PC09 ngày 05/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) - Công an tỉnh Đồng Nai; 01(một) cân tiểu ly màu đen; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma tuy đá đề nghị Tòa tịch thu tiêu hủy.
+ 01(một) ĐTDĐ hiệu MASSTEL màu đỏ, số sim: 0879.634.408 của T1:
01(một) ĐTDÐ OPPO màu xám, số sim: 0931.576.907 của T1 để liên lạc trao đổi mua bán ma túy đề nghị Tòa tịch thu sung công.
+ Đối với 01 (một) ĐTDÐ Sam sung màu xám; 01 (một) ĐTDĐ OPPO màu trắng hồng (không xác định được số điện thoại) Tuấn dùng để liên lạc, không sử dụng phạm tội, Cơ quan điều tra trả lại cho gia đình bị cáo Tuấn.
+ 01(một) xe mô tô hiệu Honda Wave S màu đen biển số: 60B1- 218.93, T1 không sử dụng xe vào việc phạm tội, Cơ quan diêu tra trả lại xe cho gia đình bị cáo T1.
+ Đối với 01(một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu bạc biển số: 60F1- 156.26, kết quả xác minh xác định biển số 60F1-156.26 là xe hiệu Honda Wave S. Qua đối chiếu thông tin xe mô tô xác định xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu bạc biển số: 60F1- 156.26 không trùng khớp hiệu xe, số khung số máy. Kết quả xác minh số khung, số máy xác định xe mô tô trên có BS: 60B8-598.94 do anh Vũ Thanh Minh T2 SN: 1995 cư trú: tố 3, ấp Lợi Hà, xã Thanh Bình, huyện Trảng Bom, Đồng Nai đứng tên chủ sở hữu. Qúa trình điều tra xác định anh T3 bị mất xe Mô tô BS: 60B8-598.94 vào thời gian tháng 3/2020 tại ấp 8, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, Đông Nai, bị cáo T khai nhận mua chiếc xe trên từ một người đàn ông không biết tên, địa chỉ từ tháng 4/2020 với giá 4.000.000 đồng, khi mua người đàn ông đó đưa cho T 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe, hiện T đã làm mất và không biết xe trên là xe do trộm cắp mà có. Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom trả lại xe cho anh Vũ Thanh Minh T2.
- Các bị cáo Nguyễn Thanh T và Lê Minh T1 không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu. Các bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[1.2] Về sự vắng mặt của người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Bích P được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt, tuy nhiên đã có lời khai trong quá trình điều tra, không ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt.
[2] Về trách nhiệm hình sự:
Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của các bị cáo phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết luận giám định; lời khai người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đúng như hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 27/7/2020, tại tổ 1, ấp Lộ Đức, xã Hố Nai 3, huyện Trảng Bom, lực lượng Công an tiến hành kiểm tra bắt quả tang Nguyễn Thanh T và Lê Minh T1 tàng trữ trái phép ma túy loại: Methamphetamine, khối lượng 4,5896 gam mục đích sử dụng và bán lại cho các đối tượng nghiện khác để kiếm lời.
Như vậy, đã có đủ căn cứ và cơ sở để xác định hành vi của các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Minh T1 đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân dẫn tới nhiều hành vi phạm tội khác nên cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm mới đủ răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.
Trong vụ án này, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nhưng chỉ ở mức độ đồng phạm giản đơn, không có sự phân công, bàn bạc cụ thể. Tuy nhiên, bị cáo T là người trực tiếp đi mua ma túy với khối lượng 4,5896 gam nên có vai trò cáo hơn bị cáo T1, bị cáo T1 giúp sức cho bị cáo T1 thể hiện trong việc cùng góp tiền để T1 đi mua ma túy, do vậy cần có mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo.
[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo là người có nhân thấn tốt. Bị cáo T, T1 là người không biết chữ vì vậy nhận thức pháp luật còn hạn chế, các bị cáo lao động chính. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
+ Tịch thu têu hủy đối với 01(một) phong bì niêm phong chứa ma túy sau giám định số: 1524/KLGÐ-PC09 ngày 05/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai; 01(một) cân tiểu ly màu đen; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma tuy đá + 01(một) ĐTDĐ hiệu MASSTEL màu đỏ, số sim: 0879.634.408 của T:
01(một) ĐTDÐ OPPO màu xám, số sim: 0931.576.907 của Thuỳ đây là công cụ các bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy, còn giá trị sử dụng nên cần Tòa tịch thu sung công.
Đối với đối tượng tên L và người thanh niên đã bán ma túy cho T, do T không rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiếp tục điều tra có căn cứ sẽ xử lý sau..
[5] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Minh T1 phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Xử phạt: Nguyễn Thanh T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/7/2020.
- Xử phạt: Lê Minh T1 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/7/2020.
2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
+ Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy sau giám định được đựng trong 01(một) phong bì niêm phong sau giám định số 1524/KLGÐ-PC09 ngày 05/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự (PC09) công an tỉnh Đồng Nai; 01(một) cân tiểu ly màu đen; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma tuy đá.
+ Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01(một) ĐTDĐ hiệu MASSTEL màu đỏ, số sim: 0879.634.408 của Tuấn; 01(một) ĐTDÐ OPPO màu xám, số sim: 0931.576.907 của Thuỳ.
(Vật chứng đang được lưu giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án huyện Trảng Bom).
3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Minh T1, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 221/2020/HSST ngày 26/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 221/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về