Bản án 221/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 221/2020/HS-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 203/2020/TLST- HS ngày 09 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 219/2020/QĐXXST- HS ngày 30 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Hà Sỹ T, sinh năm 1997 tại tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện X, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Sỹ H, sinh năm 1972 và bà Cầm Thị C, sinh năm 1976; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không có.

Bị bắt, tạm giam ngày 14/4/2020. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1999; trú tại: Ấp B, xã B, huyện S, tỉnh An Giang. (Vắng mặt).

Người làm chứng: Ông Huỳnh Văn L. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 14 tháng 4 năm 2020, khi tổ tuần tra của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương phối hợp cùng Công an phường Bình Hòa tiến hành tuần tra đến khu vực trước nhà hàng M thuộc khu phố Đ, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì phát hiện bị cáo Hà Sỹ T điều khiển xe mô tô biển số 67M1 – 672.67 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, bị cáo T khai nhận bản thân có sử dụng ma túy đồng thời T lấy từ trong túi quần phía trước bên phải đang mặc 01 (một) túi nylon miệng kéo dính có viền đỏ đưng 01 (một) viên nén màu nâu và 01 (một) túi nylon miệng kéo dính có viền xanh chứa tinh thể màu trắng, T khai nhận đây là ma túy nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản niêm phong tang vật đưa đối tượng Tình về trụ sở Công an làm việc.

Qua điều tra, bị cáo Hà Sỹ T khai nhận vào khoảng 08 giờ ngày 13/4/2020, T mượn xe mô tô biển số 67M1 – 672.67 của bạn là bà Nguyễn Thị Kim H và điều khiển xe đến khu vực trạm thu phí S thuộc thành phố M để mua ma túy gồm 01 viên thuốc lắc và 01 túi nylon miệng kéo dính chứa ma túy dạng khay với tổng số tiền 2.000.000đồng của một người đàn ông không rõ lai lịch khoảng 30 tuổi, nói giọng miền Nam, cao khoảng 1m62, bị cáo cất giấu số ma túy trên trong người để sử dụng, sau đó thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt giữ.

Ngày 20/4/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số 210/MT-PC09 với nội dung: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,6457gam (M2); loại Ketamine. Mẫu viên nén gửi giám định, có khối lượng 0,3751gam (M1), tìm không thấy loại ma túy thường gặp theo Nghị định 73/2018/NĐ-CP.

Tại bản Cáo trạng số 219/CT-VKS -TA ngày 08/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Hà Sỹ T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Hà Sỹ T từ 01 (một) năm 06 tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bì thư niêm phong ghi số 210/PC09 là vật chứng trong vụ án nên đề xuất tịch thu tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô biển số 67M1 – 672.67 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định xe thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn Thị Kim H, bà H cho bị cáo mượn xe để đi công việc, không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã xử lý vật chứng trả xe cho bà H là đúng quy định pháp luật.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng theo nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Hà Sỹ T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người làm chứng, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 14/4/2020, tại khu vực trước nhà hàng M thuộc khu phố Đ, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Hà Sỹ T thực hiện hành vi tàng trữ 01 (một) túi nylon miệng kéo dính có viền xanh chứa tinh thể màu trắng, qua giám định xác định mẫu tinh thể trên là ma túy, có khối lượng 1,6457gam, loại Ketamine.

Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo Hà Sỹ T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng là vi phạm pháp luật Hình sự nhưng để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã cất giấu ma túy, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy phải xét xử mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

Mức đề nghị hình phạt của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo vì bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bì thư niêm phong ghi số 210/PC09 là vật chứng trong vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô biển số 67M1 – 672.67 thu giữ trong vụ án, quá trình điều tra xác định xe thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn Thị Kim H, bà H cho bị cáo mượn xe để đi công việc, không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã xử lý vật chứng trả xe cho bà H là đúng quy định pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Hà Sỹ T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Hà Sỹ T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/4/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư đã niêm phong ký hiệu 210/MT-PC09 là mẫu vật hoàn lại sau giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương;

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/7/2020).

3. Về án phí:

Buộc bị cáo Hà Sỹ T phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 221/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:221/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về