Bản án 220/2021/HSST ngày 08/06/2021 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 220/2021/HSST NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 08 tháng 6 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 227/2021/TLST-HS, ngày 10 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 248/2021/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 5 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thị H, tên gọi khác: Không. Sinh ngày 15/9/1961. Nơi ĐKHKTT: Tổ 2, phường P, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn N và bà Trần Thị S, đã chết; Chồng Nguyễn Đăng Ng, không có con; Tiền án, tiền sự: Không. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

2. Hoàng Kim H1, tên gọi khác: Không. Sinh ngày 04/8/1990. Nơi ĐKHKTT: Tổ 9, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Không xác định được; Con bà: Đỗ Thị M; có chồng là Nguyễn Hoài A, đã ly hôn, có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1977. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

HKTT: Tổ 02, phường H, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.

* Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Quốc N2, sinh năm 1993. Vắng mặt.

HKTT: Tiểu khu cấp 3, thị trấn N, huyện MC, tỉnh Sơn La.

2. Ông Vũ Văn T, sinh năm 1965. Vắng mặt.

HKTT: Tổ 01, phường P, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên 3. Anh Ngọc Đức D1, sinh năm 1987. Vắng mặt.

HKTT: Xóm L, xã H, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

* Người chứng kiến: Ông Phạm Văn N4, sinh năm 1959, (vắng mặt) HKTT: Tổ 01, phường P, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 58 phút ngày 31/10/2020, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc tại quán cà phê Thanh Hằng do Nguyễn Thị H làm chủ ở số nhà 968 đường Cách mạng tháng Tám thuộc tổ 1, phường P, thành phố TN thường xuyên xảy ra hoạt động mua bán dâm gây mất an ninh trật tự, tổ công tác của Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Thái Nguyên phối hợp với Công an phường P, thành phố TN tiến hành kiểm tra đối với quán cà phê Thanh Hằng. Quá trình kiểm tra phát hiện Nguyễn Thị H, Hoàng Kim H1 và anh Nguyễn Quốc N2 (Sinh năm 1993, HKTT: Tiểu khu cấp 3, thị trấn N, huyện MC, tỉnh Sơn La) đang ngồi tại khu vực phòng khách ngay sát cửa chính của quán. Kiểm tra tại gác xép của quán,tổ công tác đã phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thị D (Sinh năm 1977, HKTT: Tổ 2, phường H, thành phố TN) đang thực hiện hành vi quan hệ tình dục với Ngọc Đức D1 (Sinh năm 1987, HKTT: Xóm L, xã H, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên).

Vật chứng thu giữ: 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam do Hoàng Kim H1 giao nộp; 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam do Nguyễn Thị H giao nộp; 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam do Nguyễn Thị D giao nộp; 01 lõi bao cao su đã qua sử dụng; 01 vỏ bao cao su màu vàng cam đã qua sử dụng trên bao cao su có chữ Avita. 06 bao cao su màu vàng cam chưa qua sử dụng, trên vỏ đựng có chữ Avita do Nguyễn Thị D giao nộp; 02 bao cao su chưa qua sử dụng vỏ màu trắng, trên vỏ có chữ Romax màu vàng do Nguyễn Thị D giao nộp.

Hồi 16 giờ 15 phút cùng ngày, khám xét nơi ở của Nguyễn Thị H tại quán cà phê Thanh Hằng, cơ quan Công an phát hiện thu giữ: 01 bao cao su nhãn hiệu Condoms chưa qua sử dụng tại ngăn tủ thứ tư trong tủ nhựa 04 ngăn tại phòng ngủ của H.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thị H, Hoàng Kim H1, Nguyễn Thị D, Ngọc Đức D1 khai nhận: H là chủ quán cà phê Thanh Hằng, H có sử dụng quán cà phê trên để chứa mại dâm thu tiền. H1 và D là 02 gái bán dâm, H thỏa thuận với H1 và D về việc hằng ngày, H1, D sẽ tới quán của H để đợi khách đến mua dâm, việc mua bán dâm được thực hiện tại gác xép của quán. Mỗi lần khách đến mua dâm, H sẽ thu của khách số tiền là 200.000 đồng, H chia cho gái bán dâm100.000 đồng, H hưởng lợi 100.000 đồng. Việc thu tiền của khách mua dâm có thể do H trực tiếp thu hoặc nếu là khách quen của H1, D thì H1, D tự thu của khách, nếu thu được nhiều hơn 200.000 đồng/ 01 khách thì sau khi bán dâm xong, H1, D cũng chỉ phải đưa lại cho Hằng 100.000 đồng, số còn lại H1, D được hưởng. Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 31/10/2020, Ngọc Đức D1 đi taxi do anh Nguyễn Quốc N2 điều khiển đến quán cà phê Thanh Hằng để mua dâm. D1 vào mua dâm còn anh Ninh ngồi chờ để đưa D1 về. Tại quán, D1 có đặt vấn đề muốn mua dâm với H1 nhưng H1 nói đang “đến tháng” nên H1 bảo D1 “ở trong nhà còn chị nữa đấy, anh thích đi thì vào”. D1 đồng ý. D1 đưa cho H1 01 tờ 500.000 đồng, H1 cầm tiền đưa cho H để đổi tiền lẻ, H cầm tờ 500.000 đồng và đưa cho H1 05 tờ 100.000 đồng. H1 để 05 tờ tiền 100.000 đồng trên mặt bàn thì D1 cầm lại 200.000 đồng, H1 cầm 300.000 đồng (theo D1 khai vì trước đó D1 đã đến quán cà phê Thanh Hằng mua dâm, D1 đều trả 300.000 đồng). Sau đó, H1 đi trước, D1 đi sát phía sau H1, H1 đi qua chỗ H đang ngồi đưa cho H 100.000 đồng là tiền bố trí địa điểm bán dâm, rồi H1 đến chỗ giường nơi D đang ngồi đưa cho D 100.000 đồng là tiền bán dâm và bảo D đi bán dâm cho D1, H1 giữ lại 100.000 đồng. Sau đó, D và D1 đi lên gác xép của quán để thực hiện hành vi mua bán dâm. Khi D1 và D đang quan hệ tình dục thì bị tổ công tác của cơ quan công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án gồm: 800.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 01 lõi bao cao su đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su màu vàng cam; 02 bao cao su chưa qua sử dụng, vỏ màu trắng, trên vỏ có chữ “Romax” màu vàng;

06 bao cao su chưa qua sử dụng, vỏ màu vàng cam, trên vỏ có chữ “Avita”; 01 bao cao su chưa qua sử dụng, nhãn hiệu Condoms, vỏ màu đỏ. Hiện số vật chứng trên đang được bảo quản tại tài khoản và kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 228/KSĐT- KT ngày 06/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị H, Hoàng Kim H1 về tội “Chưa mai dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 327 BLHS.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Nguyễn Thị H khai: Bị cáo kinh doanh quán cafe Thanh Hằng từ năm 2017. Bị cáo có sử dụng quán để chứa mại dâm thu tiền. Ngày 27 và 31/10/2020, tại quán của bị cáo có hai gái bán dâm là D và H1 đến đợi khách.

Khi có khách bị cáo sẽ thu 200.000đ/khách rồi trả cho gái bán dâm 100.000 đ, bản thân hưởng lợi 100.000 đồng. Ngày 31/10/2020, khoảng 13 giờ 15 phút có anh D1 đến quán của bị cáo mua dâm, vì anh D1 quen H1 nên bị cáo để H1 trực tiếp giao dịch với D1. Sau đó, H1 đưa cho bị cáo 500.000đ của D1 để đổi tiền lẻ, bị cáo đưa cho H1 5 tờ 100.000 đồng. Bị cáo không biết H1 lấy của D1 bao nhiêu, đưa cho D bao nhiêu nhưng có đưa cho bị cáo 100.000đ là tiền bố trí địa điểm bán dâm. Khi D1 và D đang thực hiện hành vi quan hệ trên gác xép quán cafe của bị cáo thì bị lực lượng Công an bắt giữ. Tại phiên tòa, bị cáo thống nhất với tội danh và thống nhất với khung hình phạt như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố, thừa nhận không có oan, sai.

- Bị cáo H1 khai: Bị cáo làm nghề mại dâm từ cuối năm 2019, bị cáo mới đến quán của Hằng để bán dâm từ ngày 27/10/2020. Trong, ngày 27/10/2020 bị cáo đã bán dâm cho 2 người nhưng không nhớ tên. Đến khoảng 13 giờ 15 phút ngày 31/10/2020, có anh D1 bị cáo quen biết từ ngày 27/10/2020 đi taxi đến quán cà phê Thanh Hằng để mua dâm. Do hôm đó bị cáo đến tháng nên đã bảo D cũng là gái bán dâm ở quán bán dâm cho D1. Khi anh D1 đồng ý thì có đưa cho bị cáo 500.000đ. Bị cáo nhờ bị cáo Hằng đổi sang 5 tờ 100.000đ rồi đưa lại cho anh D1 200.000đ, bị cáo cầm 300.000đ là tiền D1 trả mua dâm. Bị cáo đưa cho Hằng 100.000đ là tiền sử dụng địa điểm, đưa cho D 100.000đ tiền công bán dâm còn giữ lại 100.000đ hưởng lợi. Khi anh D1 và D đang thực hiện hành vi quan hệ trên gác xép của quán thì bị lực lượng Công an phát hiện. Tại phiên tòa, bị cáo thống nhất với tội danh và thống nhất với khung hình phạt như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố, thừa nhận không có oan, sai.

- Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị H và Hoàng Kim H1 đã phạm vào tội: “Chưa mai dâm”. Áp dụng Khoản 1 Điều 327; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 BLHS năm 2015 xử phạt:

+ Nguyễn Thị H từ 15 đến 18 tháng tù. Phạt bổ sung đối với bị cáo từ 10 đến 15 triệu đồng.

+ Hoàng Kim H1 từ 12 đến 15 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: 01 lõi bao cao su đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su màu vàng cam; 02 bao cao su chưa qua sử dụng, vỏ màu trắng, trên vỏ có chữ “Romax” màu vàng; 06 bao cao su chưa qua sử dụng, vỏ màu vàng cam, trên vỏ có chữ “Avita”; 01 bao cao su chưa qua sử dụng, nhãn hiệu Condoms, vỏ màu đỏ. Tịch thu sung quỹ nhà nước: 300.000 đồng. Tạm giữ 500.000 đồng để đảm bảo thi hành án cho bị cáo H.

+ Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

- Trong phần tranh luận các bị cáo không tranh luận, chỉ xin HĐXX xét xem cho được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về gia đình, thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, Điều tra viên, Kiểm sát viên khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Xét lời khai nhận của các bị cáo là khách quan phù hợp với lời khai của ngươi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến, người làm chứng và phù hợp với những chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định:

Vào khoảng 13 giờ 15 phút ngày 31/10/2020, tại quán cafe Thanh Hằng do Nguyễn Thị H làm chủ ở số nhà 968 đường Cách mạng Tháng Tám thuộc tổ 01, phường P, thành phố TN, Nguyễn Thị H đã có hành vi cho Nguyễn Thị D bán dâm với Ngọc Đức D1 tại khu vực gác xép của quán. Khi D và D1 đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang. Trong vụ án này, H1 là gái bán dâm của quán đã có hành vi trực tiếp nhận tiền mua dâm của D1 và hưởng lợi 100.000 đồng.

Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Nguyễn Thị H và Hoàng Kim H1 đã phạm vào tội “Chưa mai dâm”, được quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự như bản cáo trạng truy tố là đúng pháp luật. Nội dung điều luật như sau:

“1. Người nào chứa mại dâm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.

Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, xâm phạm đến sức khỏe con người và là nguyên nhân lây truyền các loại virus gây bệnh nguy hiểm trong đó có HIV/AIDS, làm phát sinh tệ nạn mại dâm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự, trị an tại địa phương. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy:

Các bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự do vụ lợi đã bất chấp hậu quả để phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

Xét vai trò đồng phạm của các bị cáo: Trong vụ án này bị cáo Nguyễn Thị H tham gia đồng phạm với vai trò là người chủ mưu, trực tiếp thực hiện tội phạm, Hoàng Kim H1 là đồng phạm với vai trò người giúp sức tích cực. Vì vậy, bị cáo H phải chịu mức án cao hơn bị cáo H1. Mức án đại diện Viện kiểm sát đề xuất đối với các bị cáo là phù hợp.

Ngoài ra, theo lời khai của bị cáo H1 và chị Nguyễn Thị D thì cả hai đã từng nhiều lần thực hiện hành vi bán dâm tại quán của H nhưng đều không nhớ tên tuổi của những người mua dâm. Vì vậy, cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xử lý đối với H về hành vi “phạm tội 2 lần” trở lên.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo Hằng có vai trò chính trong vụ án, hành vi của bị cáo là vụ lợi nên áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 327 BLHS. Bị cáo H1 có vai trò giúp sức, bị cáo được UBND phường Tân Lập xác nhận có hoàn cảnh khó khăn, một mình nuôi con nhỏ và mẹ già, mẹ của bị cáo không biết chữ. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với những vật chứng thu giữ là bao cao su và vỏ bao cao su cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 300.000 đồng là tiền D, H1, H hưởng lợi từ hành vi mua, bán dâm nên tịch thu sung quỹ. Đối với 500.000đ thu giữ của H khai là tiền của bị cáo do lao động mà có nên tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

[6] Án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong vụ án này còn có Vũ Văn T là chủ nhà cho Nguyễn Thị H thuê nhà nhưng ông T không biết Hằng sử dụng quán để mua dâm nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý đối với ông T. Đối với anh Nguyễn Quốc N2 là nhân viên taxi được Ngọc Đức D1 thuê chở đến quán cafe Thanh Hằng mua dâm nhưng khi D1 thuê xe anh N không biết mục đích của D1, bản thân anh cũng không quen biết với các bị cáo H, H1 và Dung. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý đối với anh D1 là có căn cứ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị H; Hoàng Kim H1 phạm tội: “Chứa mại dâm”.

1. Về hình phạt: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 327 điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 BLHS.

+ Xử phạt Nguyễn Thị H 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

+ Xử phạt Hoàng Kim H1 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 lõi bao cao su đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su màu vàng cam, trên bao cao su có chữ Avita được niêm phong trong phong bì niêm phong; 02 bao cao su chưa qua sử dụng, vỏ màu trắng, trên vỏ có chữ “Romax” màu vàng; 06 bao cao su chưa qua sử dụng, vỏ màu vàng cam, trên vỏ có chữ “Avita”; 01 bao cao su chưa qua sử dụng, nhãn hiệu Condoms, vỏ màu đỏ.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo H 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 397 ngày 21/5/2021 và ủy nhiệm chi số 21 ngày 10/5/2021 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

3. Án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo H, H1 phải nộp 200.000đ án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 220/2021/HSST ngày 08/06/2021 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:220/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về