Bản án 220/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 220/2020/HS-ST NGÀY 04/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 237/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 276/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Hồ Tiến D (tên gọi khác: Ch), sinh năm 1997, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số C, đường X, Phường T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh (đã bán nhà đi khỏi địa phương từ tháng 7/2019); nơi ở: Phòng trọ số S, nhà số B, Đường Số A, phường BTĐ B, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Chạy xe ôm Grab; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Bắc B (chết) và bà Lư Ngân H (chết); có vợ và 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2019; tiền án: Ngày 13/9/2017, bị Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 19/6/2018 và 01 phần quyết định khác ngày 27/9/2018, án tích chưa được xóa); tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 21/02/2011, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định đưa vào Trường Giáo dưỡng Số 4 với thời hạn 24 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong ngày 30/12/2012, được coi là chưa từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính); ngày 27/6/2014, bị Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về “Tội cướp giật tài sản” (đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 28/8/2015, tuy chưa chấp hành xong quyết định khác do Chi cục thi hành án dân sự Quận 11 không nhận được bản án của Tòa án nhân dân Quận 11 nhưng khi phạm tội bị cáo đã đủ 16 tuổi, dưới 18 tuổi nên án tích đã được xóa); bị bắt tạm giữ ngày 07-5-2020, tạm giam ngày 13-5-2020 “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ ngày 07/5/2020, Đội Cảnh sát điều tra Tội phạm về Ma túy-Công an quận Bình Tân kết hợp với Công an phường Bình Trị Đông B kiểm tra hành chính phòng trọ số S, nhà số B, Đường Số A, phường BTĐ B, quận BT do Hồ Tiến D thuê để ở. Qua kiểm tra, phát hiện và thu giữ trên tay phải của D đang cầm 01 cái bóp màu xanh da trời, bên trong có 13 gói nylon chứa tinh thể không màu. Khi đó, D cho biết là ma túy loại “hàng đá” của Dũng để dành sử dụng và đồng thời lúc này trong phòng có mặt anh Hầu Gia L nên đưa tất cả đến Công an phường Bình Trị Đông B xử lý đối với D về hành vi phạm tội quả tang rồi sau đó chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, D khai do nghiện ma túy nên trước đó đã đến khu vực đường Nguyễn Thị Nhỏ, Quận 11 mua của tên U (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy với giá 2.000.000 đồng rồi về phòng trọ phân nhỏ ra làm nhiều gói để dành sử dụng dần thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Riêng anh Hầu Gia L khai, anh vừa đến phòng trọ của D chơi được khoảng 30 phút, anh không biết và cũng không liên quan gì đến số ma túy của D. Lời khai này phù hợp với lời khai của D nên không có căn cứ xử lý anh Lương.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Hồ Tiến D khai nhận, do nghiện ma túy nên trước đó đã đến khu vực đường Nguyễn Thị Nhỏ, Quận 11 mua của tên U (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy với giá 2.000.000 đồng rồi về phòng trọ phân ra thành nhiều gói nhỏ để dành sử dụng dần thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Còn anh Hầu Gia L là do chỗ quen biết nên anh mới vừa đến phòng trọ của bị cáo chơi được khoảng 30 phút, anh không biết và cũng không liên quan gì đến số ma túy của bị cáo nên nay bị cáo thừa nhận chỉ có một mình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về hàm lượng ma túy đã giám định và việc giải quyết vật chứng.

Bản cáo trạng số 236/CT-VKS ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Hồ Tiến D ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã nêu: Bị cáo Hồ Tiến D đã có hành vi cất giữ số ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 5,0332g, loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương; đồng thời, bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà nay lại thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý nên lần phạm tội này phải chịu tình tiết tăng nặng là “Tái phạm” nên cần phải xử lý bị cáo bằng một mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 06 năm đến 07 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về vật chứng, đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước 02 chiếc điện thoại di động; tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong chứa ma túy đã giám định và 01 cái bóp.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Theo qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Hồ Tiến D tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào lúc 13 giờ ngày 07/5/2020, tại phòng trọ số S, nhà số B, Đường Số A, phường BTĐ B, quận BT. Bị cáo đã có hành vi cất giữ 13 gói nylon chứa tinh thể không màu nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Theo Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự-Công an thành phố Hồ Chí Minh thì, “Tinh thể không màu trong 13 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Hồ Tiến D, Huỳnh Thanh Sang (Điều tra viên), Nguyễn Ngọc T (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân” gửi đến giám định “là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 5,0332g, loại Methamphetamine. Do đó, bị cáo đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại Tòa hôm nay phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản niêm phong, mở niêm phong, kết luận giám định hàm lượng ma túy…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và một phần lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Còn đối với tên U bán ma túy cho bị cáo, do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau. Riêng đối với anh Hầu Gia L, do chỉ là người đến phòng trọ của bị cáo chơi được khoảng 30 phút thì bị công an vào kiểm tra, anh không biết và cũng không liên quan gì đến số ma túy của bị cáo; lời khai của anh Lương phù hợp với lời khai của bị cáo nên anh Lương không bị xử lý là có căn cứ.

[4] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác. Bên cạnh đó, ngoài 01 lần bị kết án, chưa được xóa án tích mà nay lại thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý nên lần phạm tội này phải chịu tình tiết tăng nặng là “Tái phạm”, theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 ra, bị cáo còn có thêm nhân thân xấu khác nữa nên cần phải áp dụng cho bị cáo một mức án nghiêm khắc thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo làm nghề tự do và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, số thuê bao 0938859017 và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Realme, số thuê bao 0938234002 của bị cáo, do có dùng liên lạc để mua ma túy nên tịch thu để sung quỹ Nhà nước. Riêng 01 gói niêm phong, bên trong có chứa ma túy đã giám định; bên ngoài có chữ ký ghi tên Hồ Tiến D, Huỳnh Thanh Sang (Điều tra viên), Nguyễn Ngọc T (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân là chất kích thích, Nhà nước cấm sử dụng; 01 cái bóp màu xanh da trời của bị cáo dùng cất giấu ma túy nên cần tịch thu tất cả để tiêu hủy.

[7] Bị cáo Hồ Tiến D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hồ Tiến D phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về điều luật áp dụng và phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; phạt bị cáo Hồ Tiến D 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 07-5-2020.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu sung quỹ Nhà nước gồm: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia, số thuê bao 0938859017 và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Realme, số thuê bao 0938234002.

Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 gói niêm phong, bên trong có chứa ma túy đã giám định;

bên ngoài có chữ ký ghi tên Hồ Tiến D, Huỳnh Thanh Sang (Điều tra viên), Nguyễn Ngọc T (người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân; 01 cái bóp màu xanh da trời.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số NK20/237TAM, ngày 27/8/2020)

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Hồ Tiến D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Hồ Tiến D có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 220/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:220/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:04/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về