Bản án 220/2019/HSST ngày 18/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 220/2019/HSST NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 212/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 218/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Minh H (tên gọi khác: Hugo), sinh năm 1993 tại Bình Dương; nơi cư trú: B66 Bis khu phố B, phường Bi, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Bình T, sinh năm 1971 và bà Trần Tố Q, sinh năm 1972; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân: Ngày 19/6/2019, bị Công an phường La, thị xã T, tình Bình Dương lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/5/2019 đến ngày 29/5/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú và đến ngày 19/6/2019 bị bắt tạm giam cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Ông Đỗ Văn K, sinh năm 1990; hộ khẩu thường trú: Đội 1, thôn H, xã A, huyện H, tỉnh Bình Định; tạm trú: khu phố Bi, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Đỗ Duy T, sinh năm 1995; hộ khẩu thường trú: khu phố 2, phường P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; tạm trú: 42 N, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

2. Ông Lê Văn T, sinh năm 1975; nơi cư trú: 903 L, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Cao Trần T, sinh năm 1979, vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1991, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 45 phút ngày 19/5/2019, ông Đỗ Văn K điều khiển xe mô tô biển số 86C1-297.17 đi đến cầu Tân Phú thuộc khu phố N, phường L, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì dựng xe dưới lòng đường có gắn chìa khóa trên xe và ông K nằm ngủ trên hành lang cầu. Trên chiếc xe của ông K có túi đồ bên trong đựng 01 máy khoan bê tông và 02 máy khoan ốc vít. Đến khoảng 00 giờ ngày 20/5/2019, Trần Minh H đi bộ đến cầu Tân Phú nhìn thấy xe mô tô của ông K nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Sau đó, Trần Minh H lén lút lấy xe mô tô cùng túi đồ rồi điều khiển xe đến đường Đông Nhì thuộc khu phố Đ, phường L, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

Vật chứng thu giữ gồm 01 xe mô tô biển số 86C1-297.170; 01 máy khoan hiệu Maktee, 01 máy khoan hiệu FEG và 01 máy khoan hiệu Master.

Theo Biên bản định giá tài sản và Kết luận định giá tài sản ngày 28/5/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã Thuận An xác định 01 xe mô tô biển số 86C1-297.17 có trị giá 9.000.000 đồng, 01 máy khoan hiệu Maktee có trị giá 450.000 đồng, 01 máy khoan hiệu FEG có trị giá 900.000 đồng và 01 máy khoan hiệu Master có trị giá 450.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 10.800.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 230/CT-VKS-TA ngày 22/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố bị cáo Trần Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Trần Minh H từ 07 tháng tù đến 10 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo thống nhất với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An tham gia phiên tòa và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Minh H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 00 giờ ngày 20/5/2019, tại cầu Tân Phú thuộc khu phố N, phường L, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Trần Minh H cố ý thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô biển số 86C1-297.17, 01 máy khoan hiệu Maktee, 01 máy khoan hiệu FEG và 01 máy khoan hiệu Master của bị hại Đỗ Văn K có giá trị là 10.800.000 đồng và bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo Trần Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì tham lam, tư lợi bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương và bị cáo có nhân thân xấu, trong quá trình điều tra bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng bị cáo không rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Qua đó cho thấy bị cáo có thái độ xem thường pháp luật nên cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo suy nghĩ lại hành vi phạm tội của mình, giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Mức hình phạt theo lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha số loại Sirius biển số 86C1-297.17; 01 máy khoan hiệu Maktee, 01 máy khoan hiệu FEG và 01 máy khoan hiệu Master thu giữ trong vụ án. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên do ông Đỗ Duy T đứng tên giấy chứng nhận đăng ký xe, ông T đã bán chiếc xe trên cho ông Lê Văn T. Sau đó, ông T tiếp tục bán lại cho ông Đỗ Văn K nhưng không tiến hành thủ tục sang tên. Do đó, chiếc xe mô tô biển số 86C1-297.17 thuộc sở hữu hợp pháp của bị hại Đỗ Văn K nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã trả cho ông K là phù hợp quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Minh Hậu phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Minh H 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2019, được khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/5/2019 đến ngày 29/5/2019.

2. Về án phí: Bị cáo Trần Minh H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 220/2019/HSST ngày 18/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:220/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về