TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 220/2019/HSPT NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 217/2019/TLPT-HS ngày 04/7/2019 đối với bị cáo D Hlong, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 127/2019/HS-ST, ngày 28/5/2019, của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo kháng cáo: Họ và tên: D Hlong; sinh năm 1997, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Buôn K, xã S, huyện A, tỉnh Đắk Lắk; dân tộc: Mnông; trình độ học vấn: 06/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông: Võ Văn T và bà H Hlong; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/11/2018 đến nay; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Đức D1 – Công ty Luật TNHH MTV Đ, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
Địa chỉ: Thành phố M, tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo D2 Hlong và K2 Êban nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 22/11/2018, D Hlong, D2 Hlong và và K2 Êban, có rủ nhau đi vào thác N, thuộc Buôn K, xã S, huyện A, tỉnh Đắk Lắk chơi thì gặp anh Trần Quang D3, anh Ngô Việt H1 và chị Hoàng Thị Lan A1 cũng đang đi chơi tại thác. Lúc này D2 đến hỏi xin nhóm anh D3 thuốc lá để hút nhưng nhóm anh D3 nói không có thuốc, D2 nói “Không có thuốc thì cho xin tiền để mua thuốc”. Nghe vậy, anh D3 không cho và giơ tay lên lắc lắc ra hiệu không có rồi đi xuống khu vực thác nước phía dưới. Tức giận về việc nhóm anh D3 không cho thuốc và tiền nên D2 có rủ D và K2 “Tí nữa chặn đường đánh nhóm anh D3” thì D và K2 đồng ý rồi cả bọn đi lên trên cầu chơi thì thấy nhóm anh D3 đang chơi ở phía dưới nên D2 và K2 lấy đá ném xuống nhưng không trúng ai rồi đứng ở trên cầu nói chuyện. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày thấy nhóm anh D3 đi lên trên cầu và đi ra bãi giữ xe mô tô để lấy xe đi về thì D nói D2 điều khiển xe Mô tô hiệu Yamaha-Sirius, chưa có biển số chở D và K2 đi về nhà Dlấy 01 con dao tự chế mũi nhọn dài 65cm, cán được quấn bằng băng keo màu đen dài 15cm, bản dẹp kích thước 04cm ra cổng chào Buôn K, xã S chờ chặn đánh nhóm của anh D3, đợi khoảng 05 phút không thấy nhóm anh D3 đi ra nên D nói D2 điều khiển xe mô tô chở D và K2 đi ra hướng từ Buôn K, xã S ra Quốc lộ 14, xã P, thành phổ M, tìm nhóm anh D3 để đánh nhưng không thấy nên quay xe đi về lại Buôn K. Khi đi đến khu vực cổng chào Buôn K thấy anh D3 đang điều khiên xe Môtô Vision, màu đen-đỏ, biển sổ 47D1-401.61 chở chị Lan A1, còn anh H1 một mình điều khiển xe Mô tô Exciter, biển số 29E1 - 879.34 đi phía sau đi ra, D2 liền quay xe lại đuổi theo, vượt lên khoảng 40m thì dừng lại nhặt đá đứng chờ nhóm anh D3 đi đến để ném. Khi nhóm anh D3 đi tới D2 ném đá vào xe anh D3 và anh H1 nhưng không trúng nên cá bọn lên xe tiếp tục đuổi theo lần thứ hai, vượt lên trước một đoạn rồi lại nhặt đá ném vào xe anh D3 và anh H1 nhưng vẫn không trúng, nên D2 tiếp tục điều khiển xe chở Dvà K2 đuổi theo. Khi đến khu vực gần mỏ đá N1, thuộc địa bàn xã P, thành phổ M, thì đuổi kịp nhóm của anh D3, D2 cho xe vượt lên và cả ba đứng ra giữa đường, D2 và K2 cầm đá trên tay còn D cầm con dao chặn đầu nhóm anh D3. Thấy vậy, anh D3 và anh H1 dừng xe lại, cách nhóm D khoảng 3m. Lúc này thấy trên mũ bảo hiểm của anh H1 có gắn Camera hành trình hiệu Sony, D nói với K2 và D2 “Lại lấy camera không có sau này Công an biết”. Nghe D nói vậy, K2 cầm cục đá trên tay đi đến chỗ anh H1 đang ngồi trên xe và nói “Bỏ hết đồ đạc xuống, tháo mũ bảo hiểm ra, tắt camera đi”, sợ bị K2 dùng đá đánh vào đầu nên anh H1 không bỏ mũ bảo hiểm xuống K2 cầm cục đá trên tay đập vào mặt nạ xe mô tô của anh H1 nhưng không gây hư hỏng gì rồi giật lấy chiếc Camera hành trình gắn trên mũ bảo hiểm của anh H1 bỏ vào túi quần. Cùng lúc này, D2 cầm đá trên tay đi đến chặn trước đầu xe anh D3 thì anh D3 nói “Các anh cứ bình tĩnh, có gì từ từ nói chuyện”. D2 nói “Mày thái độ với tao à, mày có tin không sống mà ra khỏi đây không, tao xin mà không cho à” anh D3 trả lời “các anh bình tĩnh, cần gì bọn em cho” thì D2 nói “tháo mũ ra, bỏ hết túi xuống”. A1, D3 và chị Lan A1 thấy D2 cầm đá sợ bị đánh vào đầu nên không dám bỏ mũ bảo hiểm ra nên D2 dùng tay lật kính mũ bảo hiêm cúa anh D3 lên rồi đấm vào mặt anh D3, do anh D3 ngả người ra sau nên không trúng. Thấy vậy, D cầm dao đi đến trước xe anh D3 đưa lên hỏi “Bọn mày có biết cái gì đây không” rồi chém ngang một nhát vào đầu xe Mô tô biển số 47D1- 401.61 làm bể mặt nạ xe mô tô. Anh D3 và chị Lan A1 xin tha thì D chém tiếp nhát nữa theo chiêu ngang từ trên xuống vào người anh D3, anh D3 đưa tay trái lên đỡ thì bị trúng vào khủy tay trái gây thương tích nên anh D3 và chị Lan A1 rời khỏi xe mô tô lùi ra sau thì D cầm dao chém một nhát vào miếng ốp nhựa hông bên phải xe Mô tô biến số 47D1- 401.61 rồi đi về phía anh H1. Thấy vậy, anh H1 liền bỏ chạy thì D dùng dao chém liên tiếp 3 nhát vào mặt nạ, gương hậu bên phải, ốp nhựa hông bên phải của xe Mô tô biển số 29E1-87934 gây hư hỏng, nên anh H1 quay lại quỳ xuống xin tha. Lúc này có chị Nguyễn Thị L, đi đến hỏi có sự việc gì thì nhóm của D nói chị L đi đi, anh D3 và chị Lan A1 kéo tay chị L lại và nói “Chị ơi giúp tụi em với, tụi em đi vào đây chơi mấy người này xin tiền không cho còn đánh tụi em". Lúc này thấy trên tay anh D3 chảy nhiều máu chị L hỏi tay bị sao vậy, anh D3 nói và chỉ tay về chỗ D nói “Anh kia dùng dao chém", rồi chị L đi đến chỗ Y Diện, D2 nói “Thôi người ta ở xa đến đây chơi, tha cho người ta", thì D và K2 lên xe mô tô để D2 chở về lại buôn Kuôp. Trên đường đi K2 nói cho D2 và D biết đã lấy được Camera hành trình của anh H1, rồi D2 điều khiển xe chở D và K2 đi về nhà D2 có gặp anh D3 Hlong (là anh ruột của D2 nhờ anh D3 kiếm tra mở dùm Camera nhưng không được, nên anh D3 để lên kệ Ti vi. Sau đó, D2 chở D và K2 về nhà D cất dấu con dao. Còn anh D3 sau khi bị D chém gây thương tích thì được mọi người đưa vào Bệnh viện đa khoa Vùng Tây Nguyên, tỉnh Đắk Lắk điều trị. Sau đó chuyển đến Bệnh viện Giao thông Vận tải Thành phố H điều trị đến ngày 07/12/2018 thì ra viện.
Ngày 23/11/2018, D và D2 đã tự nguyện giao con dao tự chế, chiếc Camera và 01 chiếc xe Mô tô hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen, không có biến số cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, để phục vụ công tác điều tra.
Tại bản Kết luận pháp y thương tích số 1341/PY-TgT, ngày 23/11/2018 và bản Kết luận pháp y bổ sung số 251/PY-TgT, ngày 18/02/2019, của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Anh Trần Quang D3, bị vết thương khuỷu tay trái, gãy mỏm khuỷu, tỉ lệ thương tích là 18%. Vật tác động: Sắc bén.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 287, ngày 25/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận:
- 01 chiếc Camera hành trình hiệu Sony HDR- AS20, trị giá 200.000 đồng;
- Tiền sửa chữa thay thế phụ tùng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha – Exciter 29E1 – 879. 34 bị hư hỏng là 1.765.000 đồng.
- Tiền sửa chữa, thay thế phụ tùng xe mô tô nhãn hiệu Honda – Vision 47D1 – 401.61 là: 1.235.000 đồng.
Tổng giá trị hai xe mô tô biển số 29E1 – 879. 34 và xe mô tô biển số 47D1 – 401.61 bị hư hỏng là 3.000.000 đồng Tại bản án hình sự sơ thẩm số 127/2019/HSST ngày 28/5/2019, của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 178; điểm c, d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự;
+ Tuyên bố bị cáo: D Hlong phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và tội “Cướp tài sản” - Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, h, s khoán 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo D Hlong 01 năm tù - Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo D Hlong 08 năm tù.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội bị cáo D Hlong phải chấp hành là 09 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 23/11/2018.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt đối với bị cáo D2 Hlong và K2 Êban, về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo và các đương sự.
Ngày 10/6/2019, bị cáo D Hlong có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo D Hlong vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như lời khai của của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tại cơ quan điều tra, đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu.
Tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cướp tài sản” và “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo các quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 168; khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét mức hình phạt 01 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” và 08 năm tù về tội “Cướp tài sản” là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự - Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 127/2019/HS – ST ngày 28/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Tại phần tranh luận người bào chữa cho bị cáo trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về hai tội: “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự và tội “Cướp tài sản” quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
Cấp sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết phạm tội lần đầu thuộc trượng hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS đối với tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” cho bị cáo là thiếu sót. Đối với tội “Cướp tài sản”, trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, bị cáo đã tác động gia đình gặp người bị hại để bồi thường giá trị chiếc Camera mà bị cáo và đồng bọn đã chiếm đoạt của người bị hại. Vì vậy, bà H Hlong là mẹ của bị cáo đã gặp anh H1 để xin bồi thường giá trị chiếc Camera. Song do hoàn cảnh gia đình bị cáo gặp khó khăn, nên anh H1 từ chối nhận tiền bồi thường của gia đình bị cáo, đồng thời anh H1 đã viết đơn xin giảm nhẹ hình phạt và không yêu cầu bồi thường cho bị cáo. Ngoài ra, hiện nay gia đình bị cáo gặp khó khăn được địa phương xác nhận. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo đối với tội cướp tài sản.
Từ những phân tích trên tôi đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với gia đình.
Bị cáo đồng ý với ý kiến của người bào chữa và không có ý kiến tranh luận gì thêm, mà chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe, quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ nên vào khoảng 16 giờ ngày 22/11/2018, bị cáo D Hlong cùng với bị cáo D2 Hlong và K2 Êban đã chặn đường, dùng đá ném người bị hại, dùng dao tự chế khống chế anh Trần Quang D3, anh Ngô Việt H1 và chị Trần Thị Lan A1, D Hlong còn chém anh Trần Quang D3 gây thương tích 18% để cướp 01 Camera hành trình hiệu Sony HDR – AS20, trị giá 200.000 đồng. Ngoài ra, bị cáo D còn thực hiện hành vi dùng dao chém vào xe của anh H1 và xe của chị Lan A1, làm hư hỏng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha – Exciter biển số 29 E1 – 879.34 và xe mô tô nhãn hiệu Honda – Vision biển số 47D1 – 401.61 với tổng giá trị tài sản bị cáo làm hư hỏng đối với cả hai chiếc xe là 3.000.000 đồng. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo và đồng bọn về tội “Cướp tài sản” theo điểm c, d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự và xét xử bị cáo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”, là thỏa đáng. Bởi lẽ; sau khi D2 rủ D và K2 đánh nhóm anh D3 thì D đã thực hiện hành vi phạm tội một cách tích cực. Khi bị cáo và đồng bọn đuổi và gặp nhóm của bị hại thì chính bị cáo là người khởi xướng hành vi cướp tài sản đối với chiếc camera của người bị hại. Bị cáo đã chuẩn bị Dao là khung khí nguy hiểm để thực hiện hành vi phạm tội, khống chế và chém nhiều nhát vào người anh D3, gây thương tích cho anh D3 với tỷ lệ thương tích được xác định là 18%. Bị cáo còn dùng Dao chém nhiều nhát vào xe của anh H1 và xe của chị Lan A1, làm hư hỏng tài sản của các bị hại với tổng giá trị thiệt hại được xác định là 3.000.000 đồng. Điều đó khẳng định tính hung hăng, côn đồ, coi thường sức khỏe, tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo.
Tại phần tranh luận người bào chữa cho bị cáo cho rằng bị cáo đã tác động gia đình gặp người bị hại để bồi thường giá trị chiếc Camera mà bị cáo và đồng bọn đã chiếm đoạt của người bị hại. Song do hoàn cảnh gia đình bị cáo gặp khó khăn, nên người bị hại từ chối nhận tiền bồi thường của gia đình bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo đối với tội cướp tài sản là không có căn cứ. Bởi lẽ, giá trị chiếc Camera được Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định là 200.000 đồng, để xác định giá trị thiệt hại về tài sản do bị cáo chiếm đoạt. Thực tế chiếc Camera đã được thu hồi trả cho chủ sở hữu hợp pháp. Do đó không phát sinh căn cứ để bị cáo bồi thường thiệt hại cho bị hại, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Đối với tình tiết người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đã được cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm bào chữa của Luật sư.
Quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội lần đầu và thuộc trượng hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS, đối với tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” cho bị cáo là thiếu sót. Do đó, tại cấp phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nói trên cho bị cáo đối với tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình đơn xác nhận hoàn cảnh khó khăn và được chính quyền địa phương xác nhận. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS cho bị cáo, đối với cả hai tội.
Hội đồng xét xử nhận thấy, tại cấp phúc thẩm bị cáo đã cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới như đã nhận định ở trên. Tuy nhiên, xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian để trừng trị người phạm tội, đồng thời để bị cáo có thời gian cải tạo, rèn luyện mình trở thành người công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật; mặt khác phát huy tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung. Từ phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo D Hlong phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo D Hlong - Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 127/2019/HS-ST ngày 28/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, h, s khoán 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo D Hlong 01 (Một) năm tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo D Hlong 08 (Tám) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt đối với cả hai tội buộc bị cáo D Hlong phải chấp hành là 09 (Chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (Ngày 23/11/2018).
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo D Hlong phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 220/2019/HSPT ngày 30/07/2019 về tội cướp tài sản và tội cố ý làm hư hỏng tài sản
Số hiệu: | 220/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về