Bản án 220/2018/HS-ST ngày 27/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NT, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 220/2018/HS-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố NT – tỉnhKhánh Hòa, mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ L số 295/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 261/2018/QĐXXST-HS ngày 14/9/2018 đối với bị cáo:

Đinh Tuấn S (Tên gọi khác: Tèo Chày), sinh năm 1983 tại tỉnh Khánh Hòa; Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: sống lang thang, không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; cha: Đinh Văn T và mẹ bà Lê Thị T (đã chết);

Tiền án: Bản án số 36/2008/HS-PT ngày 24/3/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/12/2015; Tiền sự: không; Nhân thân:

- Quyết định số 347/QĐ-UB ngày 29/01/2002 của Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa về việc đưa vào cơ sở giáo dục A1, tỉnh Phú Yên thời hạn 24 tháng đối với hànhvi gây rối trật tự công cộng và đánh nhau. Chấp hành xong ngày 25/02/2004.

- Bản án số 111/2005/HSST ngày 30/6/2005 của Tòa án nhân dân thành phốNT xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 09/5/2006.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 15/7/2018 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1997

Địa chỉ: 168/17 T, phường P, NT. Vắng mặt

2. Ông Lâm Quốc Đ, sinh năm 1974

Địa chỉ: Thôn P, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt

3. Ông Nguyễn Hữu B, sinh năm 1970

Địa chỉ: 67/7 Tổ 4, Đ, phường V, Tp. NT. Vắng mặt

4. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1956

Địa chỉ: 27 P, phường V, Tp. NT.Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ 20 phút, ngày 16/4/2018, trong lúc đi tuần tra tại khu vực trước nhà số 397 đường Đ, phường V, thành phố NT; tổ công tác thuộc Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy thuộc Công an tỉnh Khánh Hòa phát hiện Đinh Tuấn S và Nguyễn Văn V đi xe máy, biển kiểm soát số 79H4-4496 có biểu hiện nghi vấn về ma túy nên yêu cầu xuất trình giấy tờ tùy thân để kiểm tra. Tại đây, V tự lấy trong người ra giao nộp 01 bơm kim tiêm, 01 ống nước cất, 01 ống hút nhựa màu đỏ được hàn kín bên trong có chứa chất bột nén màu trắng, 01 cờ lê, 01 mỏ lết, 02 đoạn kim loại dài khoảng 05 cm (dùng để phá khóa xe máy); S tự lấy trong người ra giao nộp 01 bơm kim tiêm, 01 ống nước cất, 01 đoạn ống nhựa màu vàng được hàn kín bên trong có chứa chất bột nén màu trắng. V và S đều khai nhận 02 đoạn ống hút nhựa (02 tép) có chứa chất bột nén màu trắng do V và S giao nộp (được niêm phong, ghi rõ ký hiệu A,B) là ma túy, loại Hêroin. Số ma túy trên, S và V vừa mua từ mộtngười phụ nữ tên Thu (không rõ lai lịch địa chỉ) tại khu vực Lầu 7, phường V với giá 100.000 đồng/tép để sử dụng.

Tại các bản kết luận giám định số 212/GĐTP/2018 ngày 20/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận: “Chất bột trong mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy, loại Hêroin, có khối lượng là 0,0322 gam. Chất bột trong mẫu ký hiệu B gửi giám định là ma túy, loại Hêroin, có khối lượng là 0,0517 gam”.

Quá trình điều tra, xác định Đinh Tuấn S có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng chưa được xóa án tích, Nguyễn Văn V chưa có tiền án, tiền sự

Tại bản cáo trạng số 235/QĐ-VKS-NT ngày 27/8/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố NT đã truy tố bị cáo Đinh Tuấn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố NT đã giữ nguyên kết luận truy tố bị cáo Đinh Tuấn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Bị cáo Đinh Tuấn S khai nhận hành vi phạm tội có diễn biến như nội dung cáo trạng đã truy tố và cho rằng bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng và xin xem xét được hưởng mức án nhẹ.

Đối với Nguyễn Văn V có hành vi tàng trữ 0,0322 gam chất ma túy, loại Hêroin nhưng chưa có tiền án, tiền sự về hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt chất ma túy nên không xử lý trách nhiệm hình sự. Công an Thành phố NT đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền. Hiện V không có mặt tại địa phương, cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ hành vi trộm cắp tài sản.

Đối với đối tượng tên T hiện cơ quan điều tra Công an thành phố NT đang tiến hành điều tra xác minh làm rõ nhân thân lai lịch, khi đủ căn cứ, sẽ xử lý sau.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng: tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng xét thấy việc vắng mặt của họ chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về hành vi phạm tội của bị cáo theo cáo trạng truy tố cho thấy: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào biên bản sự việc, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và kết luận giám định thể hiện bị cáo đang tàng trữ trọng lượng (khối lượng) chất ma túy Hêroin trong mẫu kí hiệu B là 0,0517gam (không phẩy không năm mười bảy gam) mua để sử dụng. Theo Bản án số 36/2008/HS-PT ngày 24/3/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/12/2015 nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; do đó, đã đủ căn cứ để xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố NT đối với bị cáo Đinh Tuấn S là đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm, đã tàng trữ chất ma túy là Hêroin một cách trái phép để sử dụng là chất gây nghiện nên tác hại rất lớn và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, bị cáo đã có 01 tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích mà còn tiếp tục phạm tội, sau khi phạm tội bị cáo lẫn tránh nên đã bị bắt theo lệnh truy nã, gây khó khăn cho cơ quan điều tra; do đó cần phải xử lý nghiêm khắc. Nhưng xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tại phiên tòa, Đại diện viện kiểm sát đề nghị: Đối với đối tượng V có hành vi tàng trữ ma túy 0,0322 gam chưa cấu thành tội phạm và đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra xử phạt vi phạm hành chính; về hành vi trộm cắp tài sản của đối tượng V Cơ quan điều tra đang xác minh làm rõ chờ xử lý sau. Đối với đối tượng T và C chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ chờ xử lý sau.

Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án, Hội đồng xét xử xem xét như sau:

- Đối với chiếc xe máy hiệu xe Wave, biển kiểm soát 79H4-4496 Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Tịch thu tiêu hủy số vật chứng không còn giá trị sử dụng: 02 bơm kim tiêm, 01 ống nước cất theo mô tả của biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/9/2018 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố NT và Chi cục thi hành án dân sự thành phố NT.

- Đối với các vật chứng: 01 cờ lê, 01 mỏ lết, 02 đoạn kim loại dài khoảng 05cm liên quan đến hành vi trộm cắp của đối tượng Nguyễn Văn V, hiện cơ quan điều tra đang xác minh làm rõ chờ xử lý. Do đó, cần giao cho Công an thành phố NT tiếp tục tạm giữ để điều tra xử lý trong vụ việc trộm cắp của đối tượng V.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Luật phí, lệ phí và Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đinh Tuấn S;

- Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản L và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Tuấn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Tuấn S 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2018.

* Về trách nhiệm dân sự: người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Về vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy 02 bơm kim tiêm, 01 ống nước cất;

- Giao cho Công an thành phố NT tiếp tục tạm giữ 01 cờ lê, 01 mỏ lết, 02 đoạn kim loại dài khoảng 05cm liên quan đến hành vi trộm cắp của đối tượng Nguyễn Văn V; hiện Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố NT đang điều tra làm rõ chờ xử L;

Tất cả vật chứng theo mô tả của biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/9/2018 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố NT và Chi cục thi hành án dân sự thành phố NT.

* Về án phí: Bị cáo Đinh Tuấn S phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 220/2018/HS-ST ngày 27/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:220/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về