Bản án 220/2017/HSST ngày 21/12/2017 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - TP. HCM

BẢN ÁN 220/2017/HSST NGÀY 21/12/2017 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 230/2017/HSST ngày 28/11/2017 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Tất Chí H; Sinh năm 1990; Giới tính: Nam; Nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ĐKHKTT: 307 Vĩnh Viễn, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Phòng số 2, nhà trọ số ấp 3B, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Không; Họ tên cha: Tất C (Chết); Họ tên mẹ: Lý Chí M, sinh năm 1964; Hoàn cảnh gia đình: Bị cáo sống như vợ chồng với Trung Thị Ánh Đ, sinh năm 1993 và có 01 người con chung sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 20/9/2010, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” (Án số 288/2010/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/9/2012, đóng án phí ngày 25/11/2010; Tạm giam ngày 07/8/2017; Bị cáo có mặt tại tòa.

2. Họ và tên: Trung Hoàng Minh T; Sinh năm 1997; Giới tính: Nam; Nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ĐKHKTT: 315 chung cư H, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Phòng số 2, nhà trọ số ấp 3B, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Không; Họ tên cha: Trung Văn H, sinh năm 1964; Họ tên mẹ: Huỳnh Thị T, sinh năm 1964; Hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 01/6/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 15 tháng tại Trung T Giáo dục – Lao động  - Bảo trợ xã hội Phú Văn. Chấp hành xong Quyết định ngày 05/6/2017; Tạm giam ngày 07/8/2017; Bị cáo có mặt tại tòa.

Người bị hại: Em Nguyễn Thanh Thảo N, sinh ngày 12/3/2003; Nơi ĐKHKTT: E5/154 ấp 5, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Thanh G, sinh năm 1980, bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, sinh năm 1985; Cả hai cùng ĐKHKTT: E5/154 ấp 5, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, là cha ruột của người bị hại  (Cả hai có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT: 42/9 Khu phố 6, thị trấnm N, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

2/ Ông Lâm Chí K, sinh năm 1976; Nơi ĐKHKTT: 150A Trần Văn K, Phường A, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt) Người làm chứng:

1/ Ông Lại Khánh T, sinh năm 1987; Nơi ĐKHKTT: C4 ấp 3, xã P, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

2/ Ông Lê Phước H, sinh năm 1977; Nơi ĐKHKTT: B5 ấp 2, xã P, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt)

NHẬN THẤY

Các bị cáo Tất Chí H và Trung Hoàng Minh T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Tất Chí H và Trung Hoàng Minh T có mối quan hệ là bạn bè. Trưa ngày 07/8/2017, T nhờ H chở đến nhà một người bạn tên T ở khu vực cầu ông Thìn thuộc xã Qui Đức, huyện Bình Chánh để T nhờ T xin việc làm. H đồng ý và mượn xe mô tô biển số 52L5 – 8197 của anh Nguyễn Ngọc H để chở T đi. Trên đường đi, T kêu H rẽ vào đường Đa Phước rồi tiếp tục rẽ vào đường Liên ấp 4 – 5 thuộc xã Đa Phước để tìm nhà T. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, khi đang lưu thông trên đường Liên ấp 4 – 5 thuộc ấp 5, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh thì H phát hiện em Nguyễn Thanh Thảo N đang điều khiển xe đạp một mình, lưu thông hướng chiều ngược lại, trong túi bên phải váy em N mặc nhô ra điện thoại di động hiệu Xiaomi redmi – Note3 nên H nảy sinh ý định giật điện thoại của em N nên rủ T cùng thực hiện, T đồng ý. H quay đầu xe và chạy theo phía sau em N. Khi em N chạy xe đến trước nhà số E6/169/1, ấp 5, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh thì H tăng ga xe chạy áp sát vào bên phải của em N dùng tay trái giật điện thoại trong túi của em N rồi tăng ga bỏ chạy. Em N tri hô thì được anh Lại Khánh T cùng với anh Lê Phước H nghe thấy và đuổi theo. Trên đường tẩu thoát, H đưa điện thoại vừa giật được cho T cất giữ. Khi cả hai chạy đến trước nhà số E4/117/1 thuộc ấp 5, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh thì xe bị tắt máy. H và T bỏ xe chạy bộ ra đám ruộng thì bị anh Thành và anh Hiền cùng người dân bắt giữ giao cho Công an xã Đa Phước. Công an xã tiếp nhận đối tượng cùng vật chứng, lập hồ sơ ban đầu chuyển Công an huyện Bình Chánh để điều tra, giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan điều tra thì các bị cáo Tất Chí H, Trung Hoàng Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung nêu trên.

Căn cứ vào kết quả định giá tài sản số 1662/HĐĐG - TTHS - TCKH ngày 23/8/2017, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự huyện Bình Chánh xác định: Điện thoại di động hiệu Xiaomi redmi- Note3 có giá trị là 3.160.000 đồng.

Vật chứng trong vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi redmi- Note3; 01 xe mô tô biển số 52L5 - 8197.

Tại bản Cáo trạng số 220/CTr - VKS ngày 21/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo Tất Chí H, Trung Hoàng Minh T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ huật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay: Các bị cáo Tất Chí H, Trung Hoàng Minh T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời, thừa nhận hành vi phạm tội như bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố các bị cáo. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử cho các bị cáo hưởng mức án nhẹ.

Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ N quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị xử phạt bị cáo Tất Chí H từ 04 năm đến 05 năm tù; xử phạt bị cáo Trung Hoàng Minh T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù về tội "Cướp giật tài sản" theo điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự.

Người bị hại Nguyễn Thanh Thảo N sinh ngày 12/3/2003, tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt. Trong đơn thể hiện đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì về dân sư. Người bị hại là người chưa thành niên theo qui định pháp luật phải có có luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chỉ định cho người bị hại. Tuy nhiên, người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn từ chối người bào chữa (BL: 105A), trong quá trình điều tra lấy lời khai của người bị hại đều có sự chứng kiến của người đại diện hợp pháp của người bị hại là ông Nguyễn Thanh G (cha ruột) người bị hại là đúng theo qui định pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;

XÉT THẤY
 
Lời khai nhận tội của bị cáo các bị cáo Tất Chí H, Trung Hoàng Minh T tại phiên tòa hôm nay phù với nhau; phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người bị hại Nguyễn Thanh Thảo N; phù hợp với lời khai của những người làm chứng Lại Khánh T và Lê Phước H; phù hợp với nội dung Cáo trạng truy tố. Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như biên bản lấy lời khai, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng, kết quả định giá…cùng các chứng cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 13 giờ ngày 07/8/2017, các bị cáo Tất Chí H, Trung Hoàng Minh T đã thực hiện hành vi điều khiển xe mô tô biển số 52L5 – 8197 cướp giật 01 điện điện thoại di động hiệu Xiaomi redmi- Note3 của em Nguyễn Thanh Thảo N đang điều khiển xe đạp trước số nhà E6/169/1, ấp 5, xã Đa Phước, huyện Bình Chánh.

Tài sản mà các bị cáo cướp giật có giá trị là có giá trị 3.160.000 đồng. (Theo Công văn số 1662/HĐĐG - TTHS - TCKH ngày 23/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh).

Với những tình tiết được chứng minh trên đủ cơ sở kết luận các bị cáo Tất Chí H, Trung Hoàng Minh T đã phạm tội “Cướp giật tài sản” được qui định tại Điều 136 Bộ luật Hình sự; nên Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

Tội phạm các bị cáo thực hiện là nguy hại cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất an ninh trật tự xã hội. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng với bản tính tham lam, biếng lười lao động nên các bị cáo đã cố ý phạm tội. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội rất táo bạo và liều lĩnh, thực hiện hành vi cướp giật tài sản ngay trên đường có nhiều người qua lại mà không sợ bắt giữ; điều đó chứng tỏ ý thức chiếm đoạt tài sản của các bị cáo là rất cao, mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng. Do đó, khi lượng hình cần buộc các bị cáo pH tiếp tục chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian thì mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

Các bị cáo dùng xe mô tô làm phượng tiện phạm tội là thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm. Đây là tình tiết định khung hình phạt cần áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự xét xử các bị cáo là phù hợp.

Về nhân thân của các bị cáo: Đối với bị cáo H: Ngày 20/9/2010, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” (Án số 288/2010/HSST); đối với bị cáo T có tiền sự: Ngày 01/6/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 15 tháng tại Trung T Giáo dục – Lao động  - Bảo trợ xã hội Phú Văn. Do đó, khi lượng hình có mức án phù hợp với hành vi phạm tội, nhân thân, lai lịch của các bị cáo.

Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, không có sự bàn bạc phân công vai trò cụ thể. Trong đó, bị cáo H là người khởi xướng, rủ rê là người điều khiển xe và giật điện thoại của người bị hại; còn bị cáo T là đồng phạm giúp sức khi được bị cáo H rủ là đồng ý và là người cất giữ điện thoại sau khi bị cáo H cướp giật được. Nên khi lượng hình mức án của bị cáo H sẽ cao hơn bị cáo T là phù hợp.

Các bị cáo phạm tội đối với người bị hại Nguyễn Thanh Thảo N sinh ngày12/3/2003 là thuộc trường hợp phạm tội đối với trẻ em, cần áp dụng điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự xét xử các bị cáo.

Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay cũng như tại Cơ quan điều tra các bị cáo đã tỏ thái độ thành khẩn khai báo, thấy được việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo T phạm tội lần đầu, tài sản đã kịp thời thu hồi giao trả cho người bị hại, thiệt hại chưa xảy ra. Hội đồng xét xử nghĩ có chiếu cố giảm nhẹ phần nào khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo theo điểm p, g khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự mà lẽ ra các bị cáo phải chịu.

Về vật chứng vụ án: Đối với 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi redmi- Note3, Cơ quan điều tra đã làm thủ tục giao trả cho người bị hại theo Biên bản về việc trả lại tài sản được lập vào hồi 16 giờ ngày 12/9/2017 (BL: 80). Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đối với xe mô tô biển số 52L5 - 8197, qua xác minh xe này do ông Lâm Chí K đứng tên đăng ký sở hữu. Ông Nguyễn Ngọc H khai mua xe này của một người không rõ lai lịch vào năm 2008 để làm phương tiện; ngày 07/8/2017, bị cáo H mượn xe nói đi công việc ông Hòa không biết bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội nên không có lỗi. Nghĩ, trả xe này lại cho Hòa là phù hợp với qui định pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đơn thể hiện người bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra giải quyết.

Ở dạng tội phạm này, ngoài hình phạt tù ra các bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng xét thấy hoàn cảnh gia đình các bị cáo khó khăn cũng như không có khả năng nộp phạt nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo qui định tại khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Tất Chí H, Trung Hoàng Minh T cùng phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm p, g khoản 1 Điều 46; điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tất Chí H 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2017. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Tất Chí H.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm p, g khoản 1 Điều 46; điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trung Hoàng Minh T 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2017. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trung Hoàng Minh T.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 41 Bộ luật Hình sự.

Trả lại cho ông Nguyễn Ngọc H 01 xe mô tô biển số 52L5 - 8197 (vật chứng này đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh vào hồi 14 giờ ngày 24/11/2017).

Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính từ ngày tuyên án; Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính từ ngày nhận toàn sao bản án hoặc bán án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 220/2017/HSST ngày 21/12/2017 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:220/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về