Bản án 219/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N K, THÀNH PHỐ C T

BẢN ÁN 219/2020/HS-ST NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào ngày 28 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 219/2020/HSST, ngày 11 tháng 11 năm 2020, theo quyết định hoãn phiên tòa số 252/2020/HSST-QĐ, ngày 16/12/2020 đối với bị cáo:

P T L , sinh năm 1961 tại thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi cứ trú: Không nơi đăng ký thường trú. Chỗ ở hiện nay: Không nơi ở nhất định. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Q N và con bà Nguyễn T H ; Vợ: Sống chung như vợ chồng với bà Đặng N L và con: Không có; Tiền sự: Chưa. Tiền án: 02 lần. Lần 1: Ngày 04/01/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long xử phạt 02 năm tù giam về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 02/2013/HSST. Chấp hành xong ngày 02/7/2014. Chưa chấp hành phần bồi thường, chưa xóa án tích. Lần 2: Ngày 19/01/2016 phạm tội trộm cắp tài sản. Ngày 24/02/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 02 năm 11 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 06/2017/HSST. Chấp hành xong ngày 23/5/2019. Chưa xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/06/2020, bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận N K.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa) - Bị hại:

1. Ông Nguyễn T G , sinh năm 1999. (Vắng mặt) Địa chỉ: 133/15 Phan Đình Phùng, phường T A, quận N K , thành phố C T .

2. Bà Tô Thị H G, sinh năm 1985. (Vắng mặt) ĐKTT: 16A Đinh Tiên Hoàng, Phường 8, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.

Tạm trú: 311/36/14 Nguyễn Văn Cừ, phường An Hòa, quận N K , thành phố C T .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian tháng 4 năm 2020, P T L đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn quận N K. Cụ thể:

Vụ thứ 1: Vào khoảng 08 giờ ngày 18/4/2020, P T L thuê xe mô tô khách chở bị cáo đến Nhà thuốc Phong Nga tại số 113 Trần Vĩnh Kiết, phường A B, quận N K. Khi đến gần Nhà thuốc thì bị cáo đi bộ đến gặp nhân viên Nhà thuốc - chị Tô Thị H G để hỏi mua thuốc uống trị bệnh, lúc này bị cáo nhìn thấy trên quầy thuốc có để một điện thoại di động hiệu Oppo F9 màu đỏ. Lợi dụng lúc chị Gấm đang đi lấy thuốc, Liêm đã lén lút dùng tay phải lấy trộm điện thoại bỏ vào túi quần bên phải đang mặc rồi nhanh chóng rời đi. Sau khi bị mất tài sản, chị Gấm kiểm tra Camera phát hiện đối tượng đã lấy tài sản nên trình báo Công an phường A B.

Vụ thứ 2: Vào khoảng 17 giờ ngày 30/42020, bị cáo thuê xe mô tô khách chở đến quán Cà phê – Rửa xe 24H tại số 459 Trần Hoàng Na, phường H L, quận N K để tìm người quen xin việc làm nhưng không gặp. Trong lúc ngồi bàn tại quán cà phê đợi thì bị cáo phát hiện một điện thoại hiệu Samsung của anh Nguyễn T G - Nhân viên rửa xe để trên bàn uống nước dành cho khách không ai trông coi. Lợi dụng lúc anh Gđang có việc riêng với khách, bị cáo đã lén lút dùng tay phải lấy trộm điện thoại bỏ vào túi quần và nhanh chóng rời khỏi quán. Sau khi bị mất tài sản, anh Gbáo cho chủ quán biết kiểm tra Camera thì phát hiện đối tượng lấy trộm tài sản nên đến Công an phường H L trình báo.

Sau khi lấy được hai tài sản nêu trên, bị cáo đi đến đường Ngô Văn Sở, phường T A, quận N K (bên hông siêu thị Coopmart) bán điện thoại cho 01 thanh niên không rõ lai lịch điện thoại di động hiệu Oppo được 900.000 và điện thoại Sam Sung được 800.000 đồng đồng để tiêu xài cá nhân.

Đến ngày 5/5/2020, Lực lượng cảnh sát hình sự đặc nhiệm thuộc phòng PC02 Công an thành phố C T tuần tra trên đường Nguyễn Văn Cừ, Phường A B, quận N K phát hiện đối tượng Nguyễn T L có đặc điểm nghi vấn và giống với hình ảnh cắt từ camera của bị hại cung cấp nên mời về làm việc. Tại Cơ quan điều tra, bị cáo nhận hành vi trộm cắp tài sản.

Tài sản thu giữ gồm: 01 điện thoại Nokia màu đen, loại phím bấm; 01 khẩu trang màu xanh; 01 nón kết vải màu đen.

Tại Kết luận định giá tài sản số 459/BKL-HĐĐG ngày 13/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân quận N K xác định:

+ 01 điện thoại hiệu Oppo F9 chất lượng còn lại 70%, giá trị còn lại là 2.500.000 đồng.

+ 01 điện thoại Samsung A7, hiện không rõ thông tin về đặc điểm, hiện trạng, thông số kỹ thuật, nguồn gốc xuất xứ và thờ gian đã qua sử dụng, Hội đồng không có cơ sở để định giá tài sản phần tài sản này theo yêu cầu của Công an quận.

Tại bản cáo trạng số: 209/CT-VKSNK, ngày 09 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận N K truy tố bị cáo P T L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên cáo trạng, không bổ sung gì thêm, đồng thời phân tích tính chất, mức độ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo và đề nghị như sau:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng Điểm g khoản 2 điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo P T L từ 02 (Không Hai) năm 06 (Không sáu) tháng đến 03 (Không ba) năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý như sau:

Tịch thu tiêu hủy 01 khẩu trang màu xanh, 01 nón kết vải màu đen và 01 điện thoại di động Nokia thu giữ từ bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị cáo đồng ý bồi thường chị Tô Thị H G số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) và anh Nguyễn T G số tiền 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng).

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có điều kiện sớm trở về sinh hoạt và hòa nhập với cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và trình tự, thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra và truy tố đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo không khiếu nại gì về thủ tục tố tụng. Đối với các bị hại đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, trong quá trình điều tra đã có ý kiến, việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về nội dung: Xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận như sau:

Vụ thứ nhất, vào khoảng 08 giờ ngày 18/4/2020, bị cáo thuê xe mô tô khách chở đến Nhà thuốc Phong Nga tại số 113 Trần Vĩnh Kiết, phường A B, quận N K . Khi đến gần Nhà thuốc thì bị cáo gặp chị Tô Thị H G - nhân viên Nhà thuốc hỏi mua thuốc uống trị bệnh, lúc này bị cáo nhìn thấy trên quầy thuốc có để một điện thoại di động hiệu Oppo F9 màu đỏ. Lợi dụng lúc chị Gấm đang đi lấy thuốc, bị cáo đã lén lút dùng tay phải lấy trộm điện thoại bỏ vào túi quần bên phải đang mặc rồi nhanh chóng rời đi.

Vụ thứ hai, vào khoảng 17 giờ ngày 30/4/2020, bị cáo thuê xe mô tô khách chở bị cáo đến quán Cà phê – Rửa xe 24H tại số 459 Trần Hoàng Na, phường H L , quận N K để tìm người quen xin việc làm nhưng không gặp. Trong lúc ngồi bàn tại quán cà phê đợi thì bị cáo phát hiện một điện thoại hiệu Samsung của anh Nguyễn T G - Nhân viên rửa xe để trên bàn uống nước dành cho khách không ai trông coi. Lợi dụng lúc anh G đang có việc riêng với khách, bị cáo đã lén lút dùng tay phải lấy trộm điện thoại bỏ vào túi quần và nhanh chóng rời khỏi quán.

Theo Kết luận định giá tài sản số 459/BKL-HĐĐG ngày 13/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân quận N K xác định: 01 điện thoại hiệu Oppo F9 giá trị còn lại là 2.500.000 đồng. 01 điện thoại Samsung A7, hiện không rõ thông tin về đặc điểm, hiện trạng, thông số kỹ thuật, nguồn gốc xuất xứ và thờ gian đã qua sử dụng, Hội đồng không có cơ sở để định giá tài sản phần tài sản này theo yêu cầu của Công an quận N K .

Lời thừa nhận của bị cáo sau khi lấy được tài sản của các bị hại thì vận chuyển đến đường Ngô Văn Sở bán lấy tiền là nhằm mục đích tiêu xài cá nhân. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại, biên bản trích xuất từ camera, biên bản định giá và các chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra lại tại phiên tòa nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Bị cáo đã có 02 tiền án mà trước đó đã xác định là tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, lần phạm tội này của bị cáo xem là tái phạm nguy hiểm nên phải chịu tình tiết định khung theo quy định tại g khỏan 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Do vậy, Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điều khoản luật đã nêu là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Bị cáo đã thành niên, có khả năng lao động nhưng lại lười biếng, tham lam, chỉ muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để thỏa mãn cho nhu cầu cá nhân. Bị cáo biết hành vi thực hiện của mình là vi phạm pháp luật nhưng cố ý vi phạm, bất chấp pháp luật cho thấy ý thức chủ quan của tội phạm là cố ý thực hiện.

[3] Về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ, tại phiên tòa bị cáo có thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo chưa có tiền sự, tuổi cao, đang bị bệnh nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Trên cơ sở xem xét toàn diện nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, tạo điều kiện để bị cáo sửa chữa lỗi lầm trở thành người có ích cho xã hội sau này.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với các loại tài sản thu giữ khi bắt giữ bị cáo, bao gồm:

01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia 105 màu đen thu giữ từ bị cáo không có liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

01 khẩu trang màu xanh , 01 nón kết vải màu đen thu giữa từ bị cáo thì đây là tài sản không có giá trị lớn và bị cáo cũng không đề nghị nhận lại nên Hội đồng xét xử thống nhất tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6 ] Kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận N K tiếp tục xác minh làm rõ người chạy xe mô tô khách được bị cáo thuê chở đi và thanh niên mua điện thoại của bị cáo do bị cáo khai không rõ họ tên, lai lịch để xử lý theo quy định của pháp luật.

[7].Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường cho chị Tô Thị H G số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) và anh Nguyễn T G số tiền 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) nên ghi nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Về án phí dân sự sơ thẩm do bị cáo tuổi cao, không có nghề nghiệp ổn định nên miễn án phí cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : Bị cáo P T L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào:

Điểm g Khoản 2 Điều 173; Điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo P T L 02 (Không hai) năm 06 (Không sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày 08/06/2020.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm c Khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 khẩu trang màu xanh và 01 nón kết vải màu đen thu giữ từ bị cáo.

Trả cho bị cáo 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia 105 màu đen, không số imei, không có thông tin, không kiểm tra được chất lượng bên trong máy.

Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 584, Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo phải bồi thường cho các bị hai gồm chị Tô Thị H G số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) và anh Nguyễn T G số tiền 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng).

Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo P T L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 219/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:219/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về