Bản án 219/2019/HS-PT ngày 30/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 219/2019/HS-PT NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 209/2019/TLPT-HS ngày 01 tháng 7 năm 2019, đối với bị cáo Trần Đình B. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 15/2019/HSST ngày 17/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trần Đình B. Sinh ngày 05/5/1957 tại tỉnh Bắc Ninh; nơi cư trú: Thôn D, xã E, huyện Đ, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 7/12; con ông Trần Đình T và bà Nguyễn Thị T2 (Đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị T3, sinh năm 1958; có 02 con, con lớn sinh năm 1982, con nhỏ sinh năm 1987.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2018 đến ngày 18/3/2019. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo có luật sư Phạm Công M, thuộc trung tâm trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 24/12/2018, Ngô Minh T4 là người sử dụng ma túy loại Heroine biết ông Trần Đình B là người bán ma túy nên đã liên lạc bằng điện thoại với ông B để hỏi mua ma túy, ông B đồng ý. Sau đó, ông B điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47B1-917.84 đi từ huyện Đ đến khu vực nghĩa địa P, thuộc phường N, thành phố B1 mua 03 tép ma túy của một người phụ nữ (không rõ nhân thân lai lịch) với giá 300.000 đồng. Khoảng 19 giờ, 20 phút cùng ngày, B điều khiển xe đến vườn điều nhà T4 ở xã H huyện Đ, tại đây B bán cho T4 01 tép ma túy, T4 hẹn ngày hôm sau sẽ trả tiền cho B. trên đường về được khoảng 100m thì B bị quần chúng nhân dân và Công an phát hiện, B đã ném 02 tép ma túy còn lại xuống đất thì bị công an lập biên bản thu giữ.

Tại bản kết luận giám định số 1163/GĐMT-PC09 ngày 27/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Các cục chất rắn màu trắng đựng trong 02 túi giấy bạc được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,1428gam, loại Heroine.

Ngoài lần phạm tội trên B đã tự thú khai nhận tại cơ quan điều tra 03 lần bán ma túy cho T4 cụ thể: Lần thứ nhất: khoảng cuối tháng 11/2018 B bán 01 tép ma túy cho T4 với giá 150.000 đồng, B hưởng lợi được 50.000 đồng; lần thứ hai vào khoảng đầu tháng 12/2018 B bán 01 tép ma túy cho T4 với giá 150.000 đồng, B hưởng lợi được 50.000 đồng, lần thứ ba B bán cho T4 với giá 150.000 đồng, do T4 thiếu tiền nên chỉ đưa cho B 110.000 đồng, B hưởng lợi được 10.000 đồng.

Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 15/2019/HSST ngày 17/5/2019, của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Điểm b, s, khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Trần Đình B phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Đình B 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2018 đến ngày 18/3/2019.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 22/5/2019, bị cáo Trần Đình B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Đình B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, Tòa cấp sơ thẩm không áp dụng điểm r khoản 1 Đièu 51 BLHS là bất lợi cho bị cáo nên đề nghi HĐXX áp dung thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ nêu trên. Mức hình phạt 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù mà cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Đề nghị, HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo B sửa bản án sơ thẩm về hình phạt. Xử phạt bị cáo với mức hình phạt là 7 (Bảy) năm tù.

Trợ giúp viên pháp lý ông Trần Công M có ý kiến cho rằng: Về tội danh đồng tình với bản án sơ thẩm và quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo B phạm tội tập trung nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên đề nghị HĐXX áp dụng Điều 54 BLHS, xử phạt bị cáo 05 năm tù.

Bị cáo đồng ý với ý kiến của trợ giúp viên pháp lý và không có ý kiến tranh luận gì chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để khẳng định: Vào khoảng 19 giờ, 20 phút ngày 24/12/2018, tại khu vực vườn điều, xã H, huyện Đ, tỉnh Đắk Lắk Trần Đình B đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Ngô M T4 để thu lợi bất chính. Quá trình điều tra xác định, trước đó B đã 03 lần bán ma túy cho T4 cụ thể: Lần thứ nhất: khoảng cuối tháng 11/2018, B bán 01 tép ma túy cho T4 với giá 150.000 đồng, B hưởng lợi được 50.000 đồng; lần thứ hai vào khoảng đầu tháng 12/2018, B bán 01 tép ma túy cho T4 với giá 150.000 đồng, B hưởng lợi được 50.000 đồng, lần thứ ba B bán cho T4 với giá 150.000 đồng, do T4 thiếu tiền nên chỉ đưa cho B 110.000 đồng, B hưởng lợi được 10.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Đình B về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Xét mức hình phạt mà bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Đình B 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, xét thấy sau khi phạm tội bị cáo đã ăn năn, hối cải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính, bị cáo đã có thời gian tham gia bộ đội bảo vệ biên cương Tổ quốc. Ngoài ra, trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã tự nguyện khai báo với cơ quan điều tra về hành vi 03 lần bán trái phép chất ma túy cho T4 trước khi bị phát hiện nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết “Người phạm tội tự thú” được quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo là thiếu sót. Từ những phân tích nêu trên, HĐXX phúc thẩm giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta. Xét quan điểm của Kiểm sát viên, ý kiến của trợ giúp viên pháp lý, HĐXX chấp nhận một phần.

[3] Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Trần Đình B không phải chịu án tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đình B. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 15/2019/HSST ngày 17/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

[2] Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm b, s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 Xử phạt: Bị cáo Trần Đình B 07 (Bảy) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2018 đến ngày 18/3/2019.

[3] Về án phí: Bị cáo Trần Đình B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 219/2019/HS-PT ngày 30/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:219/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về