Bản án 219/2018/HSST ngày 08/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 219/2018/HSST NGÀY 08/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 203/2018/TLST- HS ngày ngày 06 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 203/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Xuân P, sinh năm 1974 tại tỉnh Nam Định; hộ khẩu thường trú: số A ngõ D, phường Q, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi ở: số B đường P, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Chí C và bà Phạm Thị Thanh B; tiền án: ngày 21-6-2007 Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (chấp hành xong hình phạt tù ngày 19-8-2015); tiền sự: không; nhân thân: ngày 26-5-1993 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản công dân”; ngày 18-7-2014

Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”(đều đã được xóa án tích); bị bắt, tạm giữ ngày 26-4-2018, chuyển tạm giam ngày 05-5-2018; có mặt.

Người làm chứng: Ông Phạm Như B, anh Trần Văn M (không triệu tập tham gia phiên tòa; vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 26-4-2018, tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC47) Công an tỉnh Nam Định làm nhiệm vụ tại khu vực đường đê T (gần nhà nghỉ P), thuộc tổ B, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định đã tiến hành kiểm tra hành chính đối với Vũ Xuân P điều khiển xe máy biển kiểm soát 18S7 - 0999, P tự giác lấy từ trong túi quần bên trái đang mặc của P 01 gói giấy vệ sinh màu trắng để giao nộp, kiểm tra bên trong có 02 túi ni lông màu trắng (kích thước 3x5(cm)), trong mỗi túi đều đựng chất rắn dạng tinh thể màu trắng, P khai là 02 túi ma túy đá, niêm phong ký hiệu P. Tổ công tác còn tạm giữ của P 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đã cũ, số tiền 500.000 đồng và chiếc xe máy Wave RS màu đỏ đã cũ biển kiểm soát 18S7-0999, đưa P về trụ sở Công an lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của P tại số nhà C đường P, phường T, thành phố N, thu giữ trong giỏ nhựa đựng đồ trong phòng trên gác xép 01 hộp giấy màu trắng trong đó có 01 túi nhỏ ni lông màu trắng chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, niêm phong ký hiệu M.

Tại bản Kết luận giám định số 367/GĐKTHS ngày 27-4-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 02 túi ni lông được niêm phong ký hiệu P gửi giám định đều là ma túy, loại ma túy là Methamphetamine, có tổng khối lượng là 9,910 (chín phẩy chín trăm mười) gam. Tại bản Kết luận giám định số 368/GĐKTHS ngày 28-4-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong ký hiệu M gửi giám định không phải là ma túy thuộc danh mục các chất ma túy theo quy định của Chính phủ, khối lượng mẫu M là 7,197 (bảy phẩy một trăm chín mươi bảy) gam.

Tại cơ quan điều tra, P khai: Số ma túy bị thu giữ là do P nhặt được, chưa kịp giao nộp thì bị bắt giữ; nhưng qua quá trình điều tra, đấu tranh P đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép ma túy để sử dụng cụ thể như sau: Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 26-4-2018 Phương đi đến khu vực đê T thuộc tổ H, phường T, thành phố N gặp và mua của một nam thanh niên không quen biết được 02 gói ma túy được gói bằng ni lông màu trắng với giá 500.000 đồng, P cầm số ma túy gói vào tờ giấy vệ sinh màu trắng và cất giấu trong túi quần bên trái của P mục đích để sử dụng. Khi P đang dừng xe máy khu vực đường đê T (gần nhà nghỉ P) thuộc tổ H, phường T, thành phố N thì bị Công an bắt giữ. Chất rắn Công an thu giữ ở nhà bị cáo không phải là ma túy.

Bản cáo trạng số 214/CT-VKSTPNĐ ngày 05 tháng 7 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Vũ Xuân P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, bị cáo Vũ Xuân P khai: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 26-4- 2018, bị cáo mua 02 gói ma túy đá với giá 500.000 đồng cất giấu trong túi quần mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Công an bắt quả tang. Chất rắn Công an thu giữ ở nhà bị cáo là phân bón cây, không phải là ma túy.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 7 năm đến 7 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh trụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Xuân P không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Vũ Xuân P khai nhận, khoảng 12 giờ 30 phút ngày 26-4-2018, bị cáo mua 02 gói ma túy đá với giá 500.000 đồng mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Bản Kết luận giám định số 367/GĐKTHS ngày 27-4-2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 02 túi ni lông được niêm phong ký hiệu P (thu giữ trong tay bị cáo) gửi giám định đều là ma túy, loại ma túy là Methamphetamine, có tổng khối lượng là 9,910 (chín phẩy chín trăm mười) gam. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, biết ma túy là chất do Nhà nước độc quyền quản lý nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích sử dụng cho bản thân. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an toàn xã hội, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy, là nguyên nhân dẫn tới nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án đã được xóa án tích. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án chưa được xóa án tích về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nên phải chịu tình tiết tăng nặng là “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại trong phong bì niêm phong số S là vật Nhà nước cấm lưu hành; chất rắn trong phong bì niêm phong số T, 01 hộp giấy màu trắng, 01 tờ giấy vệ sinh đã cũ không có giá trị sử dụng nên tất cả tịch thu, tiêu hủy. Chiếc điện thoại di động Nokia và số tiền 500.000 đồng là tài sản của bị cáo P, không phải là công cụ, phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án. Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 18S7-0999, Cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên tách ra điều tra xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[6] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo Vũ Xuân P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản

1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Xuân P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Vũ Xuân P 06 (sáu) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 26-4-2018.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số S, chất rắn có trong phong bì niêm phong số T/GĐKTHS và 01 hộp giấy, 01 tờ giấy vệ sinh; trả lại bị cáo 01 chiếc điện thoại di động Nokia và số tiền 500.000 (năm trăm nghìn) đồng nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 05-7-2018).

3. Án phí: Bị cáo Vũ Xuân P phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Xuân P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 219/2018/HSST ngày 08/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:219/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về