Bản án 219/2018/HNGĐ-ST ngày 09/05/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 219/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/05/2018 VỀ LY HÔN

Trong ngày 09 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 487/2017/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2017 về “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 3 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2018/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị H, sinh năm: 1965; địa chỉ: chung cư LLQ, Phường V, Quận XI, Thành phố H; (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Trương Ngọc O, sinh năm: 1965; địa chỉ: chung cư LLQ, Phường V, Quận XI, Thành phố H; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 05/9/2017 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – bà Phan Thị H trình bày:

Bà và ông Trương Ngọc O tự tìm hiểu rồi tiến tới hôn nhân, vợ chồng chung sống có đăng ký kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 178/2013 do Ủy ban nhân dân Phường 5, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 26/11/2013).

Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường phát sinh mâu thuẫn chủ yếu do ông O thường xuyên rượu chè, say xỉn, về nhà đánh đập vợ con, bạo hành gia đình. Nay nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc, cuộc sống mỗi người mỗi riêng nên bà H yêu cầu Tòa án cho ly hôn với ông Trương Ngọc O.

Về con chung: Có hai con chung Trương Nhật Hạ (nữ), sinh ngày 08/11/1998; Trương Nhật Duy (nam), sinh ngày 29/6/2002. Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi trẻ Duy, không yêu cầu ông O cấp dưỡng nuôi con. Trẻ Hạ đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Tòa án nhân dân Quận 11 đã thực hiện đầy đủ thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đối với bị đơn nhưng phía bị đơn đã không đến Tòa án để giải quyết. Do đó, Tòa án không thể tiến hành ghi nhận ý kiến đối với phía bị đơn được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa có ý kiến như sau:

- Về Thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, thông báo thụ lý vi phạm thời hạn tống đạt cho bị đơn. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành trình tự tố tụng đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Bà Phan Thị H khởi kiện “Tranh chấp ly hôn” với ông Trương Ngọc O. Bị đơn có địa chỉ tại Quận 11 nên Tòa án nhân dân Quận 11 thụ lý và giải quyết là đúng theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Phiên tòa xét xử vụ án được mở vào lúc 8 giờ ngày 20/4/2018 và 14 giờ 00 ngày 09/5/2018, nguyên đơn bà Phan Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Trương Ngọc O đã được thông báo về thời gian và địa điểm xét xử vụ án nêu trên nhưng đều vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Bà Phan Thị H và ông Trương Ngọc O là vợ chồng có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do ông O thường xuyên rượu chè, say xỉn, về nhà đánh đập vợ con, bạo hành gia đình. Nay bà H yêu cầu ly hôn với ông O.

Theo Điều 19 Luật Hôn nhân Gia đình Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Tuy nhiên cuộc sống giữa bà H và ông O không hạnh phúc, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ giấy triệu tập, thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên hòa giải, tiếp cận công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho ông O đến Tòa án để giải quyết tranh chấp ly hôn nhưng ông O cố tình vắng mặt và cũng không có ý kiến phản hồi những vấn đề bà H yêu cầu đã được ghi trong thông báo thụ lý vụ án, chứng tỏ ông O không quan tâm cũng không thiết tha đoàn tụ gia đình. Việc bà H yêu cầu ly hôn với ông O là chính đáng. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn với ông O của bà H.

Về con chung: Có 2 con chung Trương Nhật Hạ (nữ), sinh ngày 08/11/1998; Trương Nhật Duy (nam), sinh ngày 29/6/2002. Trẻ Hạ đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải. Hội đồng xét xử căn cứ đơn trình bày nguyện vọng của trẻ Duy và lời khai của bà H về người đang trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Duy nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao trẻ Duy cho bà H nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông O cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí:

Bà Phan Thị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch đối với vụ án “Tranh chấp ly hôn” là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo qui định

[4] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 là phù hợp với nhận định của Tòa án nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58 của Luật Hôn nhân và Gia đình;Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị H

Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị H được ly hôn với ông TrươngNgọc O.

 Về con chung: Giao trẻ Trương Nhật Duy (nam), sinh ngày 29/6/2002 cho bà Phan Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà H không yêu cầu ông O cấp dưỡng nuôi con.

Ông Trương Ngọc O được quyền thăm nom con, không ai được cản trở ông O thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

3. Về án phí:

Bà Phan Thị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AG/2014/0004429 ngày 26/9/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 219/2018/HNGĐ-ST ngày 09/05/2018 về ly hôn

Số hiệu:219/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về