Bản án 218/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T.S, TỈNH BẮC NINH 

BẢN ÁN 218/2020/HS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 236/2020/TLST-HS ngày 15tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 222/2020/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Đồng T, sinh năm 1997; Nơi đăng ký HKTT: Khu 7, phường N.H, thị xã Q.Y, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: lao động tự do; Tr độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Đồng H, sinh năm 1952 và bà Bùi Thị N, sinh năm 1960;Vợ, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/5/2020 đến ngày 06/7/2020 được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh. Hiện bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1987 HKTT: Thôn T.H, xã H.L, huyện H.L, tỉnh Lạng Sơn (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 27/6/2020 cơ quan điều tra Công an tỉnh Bắc Ninh, bắt quả tang tại: Cơ sở tẩm quất “H.X” thuộc khu phố M.K, phường Đ.N, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh do Lê Đồng T, sinh năm 1997 ở: Khu 7, phường N.H, thị xã Q.Y, tỉnh Quảng Ninh là người trực tiếp quản lý có 03 đôi nam, nữ đang mua bán dâm. Cơ quan điều tra thu giữ: 03 bao cao su đã qua sử dụng và 3.900.000 đồng.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp tại cơ sở tẩm quất “H.X” thu giữ: 03 máy bộ đàm; 01 đầu thu camera; 20 chiếc bao cao su và 4.800.000 đồng. Quá trình điều tra xác định số tiền 4.800.000 đồng là số tiền thu của khách đến tẩm quất. 03 bộ đàm và đầu thu camera là do Nguyễn Văn Tr mua.

Với nội dung trên, bản cáo trạng số 102/CT-VKS-P2 ngày 08/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã T.S để xét xử bị cáo Lê Đồng T về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như sau: Bị cáo làm quản lý quán “H.X”, hưởng lương là 4.500.000đồng/tháng. Bị cáo có nhiệm vụ đứng quầy thu tiền của người đến tẩm quất, sắp xếp phòng và điều nhân viên nữ đến tẩm quất. Trong thời gian làm việc tại quán tẩm quất “H.X” thì bị cáo được biết có nhân viên nữ đi bán dâm cho khách. Khoảng trước khi bị bắt 05 ngày, Sa Thị Thu Th; Đặng Thị Ng và Lê Thị H có bảo với bị cáo là có người mua dâm thì bảo để Th; Ng; H bán dâm cho khách. Khi có khách mua dâm thì bị cáo thu tiền phòng là 200.000 đồng/người. Người mua dâm có trách nhiệm tự trả tiền cho gái bán dâm, mức thấp nhất là 500.000 đồng/lần mua dâm.

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 28/5/2020, có 03 đối tượng đến mua dâm tự khai là: Nguyễn Văn S; Nguyễn Văn H1 và Nguyễn Văn L đến cơ sở tẩm quất “H.X” để mua dâm. S gặp bị cáo, đang đứng ở quầy thu ngân, S hỏi bị cáo “Còn nhân viên không?”, bị cáo nói “Có”. S bảo “Cho anh 03 vé tàu nhanh” (ý hỏi 03 nhân viên nữ để mua dâm). Bị cáo đồng ý nói “Tiền phòng là 200.000 đồng/01 người, 03 người hết 600.000 đồng”. S lại hỏi “Tiền nhân viên thế nào”, bị cáo nói “Tiền nhân viên các anh tự trả cho nhân viên, ít nhất là 500.000 đồng/người”. S đưa cho bị cáo 1.000.000 đồng để trả tiền phòng cho cả 03 người, bị cáo trả lại 400.000 đồng và bảo các anh lên phòng 203; 204; 205 đợi nhân viên. Khi S, L, H1 đi lên phòng thì bị cáo lấy bộ đàm gọi lên phòng nhân viên nữ bảo Sa Thị Thu Th (tức H.A); Đặng Thị Ng (tức Ch) và Lê Thị H (C) xuống phòng để bán dâm. H xuống phòng 203 bán dâm cho Nguyễn Văn H1; Ng xuống phòng 204 bán dâm cho Nguyễn Văn S; Th xuống phòng 205 bán dâm cho Nguyễn Văn L. Trước khi thực hiện hành vi giao cấu thì H1 đưa cho H 1.000.000 đồng, S đưa cho Ng 500.000 đồng, L đưa cho Th 1.000.000 đồng là tiền mua dâm. Khi H1 và H, S và Ng, L và Th đang thực hiện hành vi giao cấu thì lực lượng phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh phối hợp với lực lượng công an thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 03 bao cao su đã qua sử dụng và 3.900.000 đồng. Việc cho các đối tượng mua bán dâm là do bị cáo tự quyết định anh Tr và anh Thiềm không hề biết.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn Tr khai tại cơ quan điều tra: Ngày 22/5/2019, anh thuê nhà của ông Nguyễn Xuân Th, sinh năm 1957, ở: Khu phố M.K, phường Đ.N,thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh để mở cơ sở tẩm quất “H.X”. Anh có thuê Vũ Văn Th1, sinh năm 1996, ở: Tổ 12, phường H.N, quận D.K, thành phố Hải Phòng làm quản lý. Anh Tr có thuê nhân viên nữ để làm nhiệm vụ tẩm quất, trong đó có: Sa Thị Thu Th (tức H.A); Đặng Thị Ng (tức Ch) và Lê Thị H (tức C). Những nhân viên nữ này phục vụ và ăn nghỉ tại cơ sở “H.X”. Khi có người đến đấm lưng thì anh thu 200.000 đồng/người, số tiền này anh được hưởng 100.000 đồng, nhân viên nữ được hưởng 100.000 đồng, ngoài ra nhân viên nữ còn được hưởng tiền bo do khách đến tẩm quất cho. Ngày 27/6/2020 anh không biết hành vi chứa mại dâm của bị cáo Lê Đồng T. Anh Tr đề nghị Hội đồng xét xử cho anh xin lại số tiền 4.800.000 đồng; 03 máy bộ bàm; 01 đầu thu camera.Anh xác định số tài sản trên không liên quan đến vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S duy trì công tố tại phiên tòa, sau khi đánh giá tính chất của vụ án, đánh giá các chứng cứ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Đồng T phạm tội “chứa mại dâm”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Đồng T từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 03 bao cao su đã qua sử dụng; 20 chiếc bao cao su.

Tch thu nộp ngân sách Nhà số tiền 3.900.000 đồng.

Trả lại anh Nguyễn Văn Tr số tiền 4.800.000 đồng; 03 máy bộ bàm; 01 đầu thu camera.

Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với thời gian, địa điểm và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở kết luận:Lê Đồng T làm quản lý thuê cho quán tẩm quất “H.X” thuộc khu phố M.K, phường Đ.N, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 28/5/2020, T đã cho 03 đối tượng mua dâm tự khai là: Nguyễn Văn S; Nguyễn Văn H1 và Nguyễn Văn L để thu 600.000 đồng. T bảo 03 nữ bán dâm là Sa Thị Thu Th; Đặng Thị Ng và Lê Thị H, bán dâm cho 03 người mua dâm trên tại các phòng 203; 204 và 205 của quán tẩm quất “H.X”. Khi H1 và H; S và Ng; L và Th đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì lực lượng phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh phối hợp với lực lượng Công an thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang và thu giữ vật chứng liên quan đến hành vi mua bán dâm. Hành vi trên của Lê Đồng T đã phạm tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ đã xâm phạm trật tự an toàn công cộng, làm ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục, bản sắc, nếp sống văn hóa mới của dân tộc và nhân cách con người, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội và là nguy cơ lây truyền những căn bệnh nguy hiểm. Biết vậy, nhưng chỉ vì động cơ trục lợi, bị cáo vẫn lao vào con đường phạm tội để rồi phải đứng trước phiên tòa hôm nay chịu sự trừng phạt của pháp luật. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và đảm bảo được việc răn đe, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm trong xã hội.

Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về xử lý vật chứng: Các vật chứng thu giữ là bao cao su, bộ đàm, đầu thu và số tiền 8.700.000 đồng. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp cần chấp nhận.

Liên quan trong vụ án có vợ chồng ông Nguyễn Xuân Th và bà Chu Thị Minh H1 cho anh Nguyễn Văn Tr thuê nhà nhưng không biết việc mua bán dâm nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp pháp luật.

Đi với Nguyễn Văn Tr và Vũ Văn Th1 có liên quan trong vụ án, quá trình điều tra không đủ căn cứ xác định Tr và Th1 có hành vi phạm tội, nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp pháp luật.

Đi với 03 đối tượng mua dâm tự khai là Nguyễn Văn S, sinh năm 1990; Nguyễn Văn H1, sinh năm 1987 và Nguyễn Văn L, sinh năm 1990 đều ở Thôn L.S, thị Trấn L, huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh. Sau khi lập biên bản phạm tội bắt quả tang, ghi lời khai thì S, H1, L được dẫn giải về Công an tỉnh Bắc Ninh để xử lý theo pháp luật. Lợi dụng sơ hở S, H1, L đã bỏ trốn. Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bắc Ninh đã tiến hành điều tra xác minh địa chỉ trên nhưng không có ai là S, H1, L như đã tự khai. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi làm làm rõ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Đi với Sa Thị Thu Th; Đặng Thị Ng và Lê Thị H có hành vi bán dâm, Công an tỉnh Bắc Ninh đã ra quyết định xử lý hành chính với hình thức phạt tiền, xét thấy việc xử lý hành chính như trên là phù hợp nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1Điều 51;Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Lê Đồng T phạm tội “Chứa mại dâm” Xử phạt bị cáo Lê Đồng T 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/5/2020 đến ngày 06/7/2020.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 03 bao cao su đã qua sử dụng, 20 chiếc bao cao su chưa qua sử dụng.

Tch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 3.900.000đồng.

Trả lại anh Nguyễn Văn Tr: 03 bộ đàm; 01 đầu thu camera; 4.800.000 đồng. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 218/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:218/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về