Bản án 218/2020/DS-PT ngày 16/04/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 218/2020/DS-PT NGÀY 16/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 550/2019/TLPT-DS ngày 05 tháng 12 năm 2019 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” Do Bản án số 696/2019/DS-ST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện B bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1400/2020/QĐ-PT ngày 23 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1942.

Địa chỉ: Nhà không số đường Hóc Hưu, tổ 18, ấp 2, xã H, huyện B, Thành phố H.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Minh Đ, sinh năm 1985. Địa chỉ: Nhà số 344/TNG xã Bảo Thạnh, huyện B, tỉnh B (theo Giấy ủy quyền số công chứng 011666 lập ngày 30/11/2018 tại Văn phòng Công chứng A, Thành phố H).

2. Bị đơn: - Ông Hồ Minh T, sinh năm 1972;

- Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1970.

Địa chỉ: Nhà số C3/3A tổ 3, ấp 3, xã Q, huyện B, Thành phố H.

3. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Thu T – Bị đơn Bà V, ông Đ, bà T có mặt tại phiên tòa, ông T có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn bà Nguyễn Thị V trình bày:

Ngày 10/7/2017 bà cho vợ chồng ông Hồ Minh T và bà Nguyễn Thị Thu T vay số tiền 280.000.000 đồng, đến ngày 31/5/2018 ông T bà T vay tiếp 70.000.000 đồng; tổng cộng ông T bà T vay bà số tiền 350.000.000 đồng (ba trăm năm nươi triệu đồng). Vợ chồng ông T bà T cam kết trả tiền cho bà V vào ngày 20/9/2018 nhưng ông T bà T chưa thanh toán cho bà bất cứ khoản tiền gốc hay lãi nào mặc dù bà V đã nhiều lần yêu cầu ông T bà V trả nợ. Bà yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông T bà T thanh toán cho bà số tiền nợ gốc: 350.000.000 đồng; tiền lãi tạm tính đến ngày 10/12/2018 là 51.800.000 đồng (trong đó tiền lãi từ ngày 10/7/2017 đến ngày 10/12/2018: 280.000.000đ x 17 tháng x 1%/tháng= 47.600.000), tiền lãi từ ngày 31/5/2018 đến ngày 01/12/2018:

70.000.000 đồng x 6 tháng x 1%/tháng). Tổng cộng 401.800.000 đồng (bốn trăm linh một triệu tám trăm nghìn đồng).

Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện của bà Nguyễn Thị V yêu cầu bà Nguyễn Thị Thu T trả cho bà Nguyễn Thị V 330.000.000 đồng (ba trăm ba mươi triệu đồng) tiền gốc và tiền lãi theo quy định của pháp luật; không yêu cầu ông Hồ Minh T trả nợ.

Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, bị đơn bà Nguyễn Thị Thu T trình bày:

Tháng 4/2015 bà có vay của bà V 02 lần mỗi lần 80.000.000 đồng, tổng cộng là 160.000.000 đồng lãi suất 10%/tháng, mỗi tháng trả lãi 16.000.000 đồng. Từ tháng 4/2015 cho đến tháng 4/2016 bà đã trả cho bà V 192.000.000 đồng nhưng khi trả lãi bà V không ghi giấy tờ gì. Tháng 4/2016 do không có tiền trả lãi nên bà V cộng lãi vào số tiền nợ gốc lên tới 260.000.000 đồng, bà năn nỉ bà V giảm lãi nhưng bà V không đồng ý mà vẫn lấy lãi của bà mỗi tháng 26.000.000 đồng. Tháng 7/2017 do cần tiền nên bà tiếp tục vay thêm của bà V số tiền 70.000.000 đồng. Tổng cộng bà vay của bà V số tiền 230.000.000 đồng nợ gốc và lãi bà V cộng vào thành số tiền 330.000.000 đồng. Do bà đã trả lãi cho bà V ba năm rồi nên bà xin được trả gốc cho bà V.

Bản án số 696/2019/DS-ST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố H đã tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị V đối với bà Nguyễn Thị Thu T về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Buộc bà nguyễn Thị Thu T có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị V một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật số tiền 363.000.000 đồng (ba trăm sáu mươi ba nghìn đồng). Các đương sự thực hiện việc giao nhận tiền tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Ngoài ra, bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 08/11/2019, bà Nguyễn Thị Thu T kháng cáo toàn bộ Bản án số 696/2019/DS-ST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân huyện B, Thành phố H. Bà T cho rằng nội dung của bản án sơ thẩm không thỏa đáng, không đúng quy định của pháp luật, chưa phân tích hết các tình tiết liên quan đến vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà T. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện, bị đơn không rút kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Nguyên đơn trình bày: Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2015 đến tháng 5/2018 có cho bà Nguyễn Thị Thu T vay số tiền 350.000.000 đồng, vay làm nhiều lần. Mỗi lần vay tiền bà T đều ghi vào sổ của bà. Bà T đã ghi sổ nợ bà 350.000.000 đồng, viết cam kết trả nợ bà vào ngày 20/9/2018 (bà yêu cầu bà T trả nợ 330.000.000 đồng và trả lãi theo quy định của pháp luật). Khi vay chỉ có một mình bà T đến vay tiền của bà, bà có đưa sổ nợ cho bà T để bà T đưa về cho ông T ký nợ nhưng chữ ký trong sổ có phải do ông T ký không thì bà không biết nên bà không yêu cầu ông T trả nợ. Bà đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bà Nguyễn Thị Thu T trình bày: Bà có vay của bà Nguyễn Thị V 03 lần với tổng số tiền 230.000.000 đồng, lãi suất 10%/1 tháng. Bà đã trả cho bà V 192.000.000 đồng tiền lãi, khi trả lãi bà không yêu cầu bà V viết biên nhận nên không có bằng chứng để cung cấp cho Tòa án. Khi bà không có tiền trả lãi thì bà V yêu cầu bà viết vào sổ nợ của bà V, do bà cộng nhầm nên bà viết số tiền nợ là 350.000.000 đồng nhưng thực chất số tiền nợ là 330.000.000 đồng (trong đó có 230.000.000 đồng tiền gốc, còn lại là tiền lãi cộng vào gốc). Đến nay do việc làm ăn của bà có nhiều khó khăn và bà cho người khác vay tiền nhưng không đòi được. Bà đồng ý trả bà V số tiền 330.000.000 đồng, trả dần hàng tháng mỗi tháng trả 3.000.000 đồng (Bệu đồng). Bà không chấp nhận khoản lãi vì bà V đã lấy lãi nhiều quá rồi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi xét xử. Tại phiên tòa phúc thẩm cho đến khi nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tiến hành phiên tòa đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự trong vụ án đã chấp hành đúng quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của mình.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Ngày 08/11/2019, bà Nguyễn Thị Thu T kháng cáo toàn bộ Bản án số 696/2019/DS-ST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, Thành phố H, bà Thu T kháng cáo trong thời hạn quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên hợp lệ.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Trước khi mở phiên tòa, ông Hồ Minh T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; căn cứ Khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt ông Hồ Minh T.

[3] Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự không thống nhất số tiền vay, lãi suất vay, thời hạn thanh toán; vì vậy Hội đồng xét xử xem xét sổ ghi nợ do bà V xuất trình để đánh giá lời trình bày của các đương sự và xác định nghĩa vụ trả nợ của bà T. Xem xét sổ ghi nợ do bà V xuất trình thể hiện bà T đã nhiều lần nhận tiền của bà V. Bà T đã nhận nợ số tiền là 350.000.000 đồng và bà hẹn trả bà V vào ngày 20/9/2018. Đối chiếu với từng lần nhận tiền của bà T thì tổng số tiền bà T nhận là 330.000.000 đồng, bà V đồng ý số tiền bà T còn nợ là 330.000.000 đồng. Vì vậy, bản án sơ thẩm buộc bà T phải trả nợ số tiền gốc là 330.000.000 đồng và xác định thời hạn trả nợ từ ngày 20/9/2018 để tính lãi suất 10%/năm từ ngày 20/9/2018 đến ngày xét xử sơ thẩm làm tròn số tiền lãi là 33.000.000 đồng là phù hợp với Điều 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T chấp nhận trả bà V số tiền 330.000.000 đồng, trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng nhưng không được bà V đồng ý, do đó không có căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo yêu cầu của bà T.

[4] Trong đơn khởi kiện bà Nguyễn Thị V yêu cầu ông Hồ Minh T và bà Nguyễn Thị Thu T phải trả nợ cho bà V nhưng tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện của bà V chỉ yêu cầu một mình bà T, không yêu cầu ông Hồ Minh T trả nợ cho bà V. Ông Hồ Minh T không thừa nhận ông vay tiền của bà V mà việc vay tiền do một mình bà T thực hiện. Do vậy Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà T phải trả nợ cho bà V là có căn cứ.

[5] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thu T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 5% số tiền phải trả cho bà Nguyễn Thị V và phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Bà Nguyễn Thị V là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

[6] Trong phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 696/2019/DSST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện B đã tuyên “Buộc bà nguyễn Thị Thu T có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị V một lần ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật số tiền 363.000.000 đồng (Ba trăm sáu mươi Bệu đồng). Các đương sự thực hiện việc giao nhận tiền tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền”. Tòa án nhân dân huyện B tuyên án như trên là chưa chính xác vì bà T có quyền trả tiền cho bà V trước khi bản án có hiệu lực pháp luật và địa điểm giao nhận tiền giữa bà T và bà V do các bên thỏa thuận mà không nhất thiết phải giao nhận tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền. Do đó, tuy các đương sự không kháng cáo nội dung này nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm cần thiết phải điều chỉnh lại cho phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng năm 2015; Căn cứ Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị Quyết số 01/2019/HĐ-TP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

Căn cứ điểm đ Khoản 1 Điều 12, Khoản 2 Điều 26, Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-QH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Căn cứ Luật thi hành án dân sự;

Căn cứ Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án;

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thu T. Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị V. Buộc bà Nguyễn Thị Thu T phải trả bà Nguyễn Thị V số tiền 363.000.000 đồng (ba trăm sáu mươi Bệu đồng).

2. Về án phí:

2.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Thu T phải chịu 18.150.000 đồng (mười tám triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

2.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số AA/2019/0008880 ngày 11/11/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B; bà T đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

3. Nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bà Nguyễn Thị V có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bà Nguyễn Thị Thu T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Trường hợp bàn án được thi hành theo quy định tại Khoản 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 218/2020/DS-PT ngày 16/04/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:218/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về