Bản án 218/2019/HSST ngày 22/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 218/2019/HSST NGÀY 22/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 5 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 206/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 233/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên Lê Văn H, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1978. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở tổ 9, phường C.G, thành phố TN, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn 7/12. Con ông Lê Quang Th, con bà Lê Thị Th2 (đều đã chết). G ia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư, chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: 3

- Bản án số 114/HSST ngày 19/9/2000 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt Lê Văn H 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Bản án số 103/2007/HSST ngày 13/6/2007 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt Lê Văn H 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Bản án số 22/2011/HSST ngày 02/8/2011 của Tòa án nhân dân thị xã S.C, tỉnh TN xử phạt Lê Văn H 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2018 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

2. Họ và tên Tạ X.H, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1962. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: tổ 17, phường C.G, thành phố TN, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình đ ộ học vấn: 7/10. Con ông Tạ Văn T, con bà Phạm Thị Y (đều đã chết). Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư. Có vợ Đinh Thị O, sinh năm 1970 (đã ly hôn); có 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1995. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2018 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến: Anh Đặng Đức H2, sinh năm 1984, Đ ịa chỉ tổ 20, phường Tr, thành phố TN. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ 20 phút ngày 27/12/2018, tổ công tác của Công an phường Tr, thành phố TN làm nhiệm vụ tại khu vực ngã tư chợ D.H, thuộc tổ 10, phường Tr phát hiện 02 người đàn ông đang ngồi trên 01 chiếc xe mô tô nhãn hiện YAMAHA TAURUS, BKS 20M6-2358 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma tuý, tổ công tác áp sát, yêu cầu kiểm tra, 02 người đàn ông trên chấp hành. Người đàn ông đ iều khiển xe mô tô tự khai tên là Tạ X.H, qua kiểm tra đối với Hiền, cơ quan Công an không phát hiện thu giữ gì, người đàn ông ngồi phía sau tự khai tên là Lê Văn H, H tự giác giao nộp từ lòng bàn tay trái của mình 01 gó i giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng cho tổ công tác (H khai là Hero ine mà H và Hiền góp tiền mua để cùng sử dụng). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tộ i quả tang đối với H, X. H, niêm phong thu giữ vật chứng theo quy đ ịnh. Ngoài r a, tổ công tác còn tạm giữ của X.H chiếc xe mô tô BKS: 20M6-2358.

Cùng ngày tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của H, Hiền có khối lượng 0,299 gam. Tại bản Kết luận giám định số 208/KL-PC09 ngày 04/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của H, X.H là chất ma túy, loại Hero ine, có khối lượng 0,299 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Văn H, Tạ X.H khai nhận: Khoảng 7 giờ 30 phút, H, Hiền (là hàng xóm) đi uống Methadone tại phường Tr, thành phố TN. Sau khi uống Methadone xong, H và X.H có gặp H2 (chưa rõ lai lịch đ ịa chỉ , là đối tượng nghiện), cả 03 rủ nhau góp tiền mua ma túy Hero ine để cùng sử dụng. Hiền và H2 mỗi người đưa cho H 120.000 đồng, H góp vào 110.000 đồng rồi Hiền đ iều khiển xe mô tô BKS 20M6 - 2358 chở H đến khu vực ngã ba T.L thuộc phường T.L, thành phố TN để mua ma túy. Tại đây, H gặp và mua của 01 nam thanh niên không quen biết 01 gói ma túy Heroine với giá 350.000 đồng. Mua xong, H cầm gói Heroine ở lòng bàn tay trái rồi Hiền chở H về gặp H2 để cùng sử dụng ma túy. Tuy nhiên, khi cả hai điều khiển xe đi đến ngã tư chợ D.H thuộc tổ 10, phường Tr thì bị tổ công tác của Công an phường Tr, thành phố TN phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận của các bị can Lê Văn H, Tạ X.H phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến.

Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA TAURUS màu sơn đỏ - đen, BKS: 20M8-2358, đăng ký xe mang tên Tạ Thị D (S inh năm 1958, HKTT tổ 17, phường C.G, thành phố TN). Sáng ngày 27/12/2018, chị Dự cho Tạ X.H mượn chiếc xe mô tô trên để đi uống Methadone. Hiện chiếc xe đã được trả lại cho chị Tạ Thị D quản lý, sử dụng.

- 01 bì niêm phong ký hiệu H, hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 210/CT-VKSTPTN ngày 06 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Lê Văn H và Tạ X. H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Trong phần luận tội, tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Lê Văn H và Tạ X.H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn H và Tạ X.H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1(khoản 2 đối vớ bị cáo H) Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; cả hai bị cáo không pH chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt Lê Văn H từ 24 đến 30 tháng tù giam, Tạ X.H từ 18 đến 24 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với cả hai bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu H, - Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA TAURUS màu sơn đỏ - đen, BKS 20M8-2358, đăng ký xe mang tên Tạ Thị D. Hiện chiếc xe đã được trả lại cho chị Tạ Thị D quản lý, sử dụng nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận, cả hai bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử b ị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Phần lời nó i sau cùng cả hai bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo s ớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận đ ịnh như sau:

[1] Về hành vi, các quyết đ ịnh tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] T ại p hiên tò a hô m nay, c ác b ị c áo đã khai nhận to àn bộ hành vi p hạm tộ i của mì nh như b ản c áo trạng truy tố. Lời khai c ủa b ị c áo tại p hiên tòa p hù hợp với lời khai c ủa b ị c áo tại c ơ q uan Đ iều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Hộ i đ ồ ng xử có đ ủ c ăn c ứ kết luận:Khoảng 8 giờ 20 phút ngày 27/12/2018, tại tổ 10, phường Tr, thành phố TN, Lê Văn H, Tạ X.H có hành vi tàng trữ 0,229 gam Hero ine, mục đích để cùng nhau sử dụng thì bị tổ công tác của Công an phường Tr, thành phố TN phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng. Số Hero ine trên là do H, X.H và 01 đối tượng tên H2 (không rõ lai lịch đ ịa chỉ) góp tiền mua để cùng nhau sử dụng tuy nhiên chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang.

[3] Đánh giá của Hộ i đồng xét xử: Các bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà quản lý nhưng cả hai bị cáo vẫn cố tình tàng trữ 0,229 gam Hero ine để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của các bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại đ iểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tộ i danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………….

c, Heroine…có khối lượng từ 0,1 đến dưới 05 gam”.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, s ử dụng chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[5] Xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án: Lê Văn H và Tạ X.H đều là những đối tượng nghiệm ma túy, không có nghề nghiệp, cùng rủ nhau góp tiền mua ma túy sử dụng chung. Do vậy vai trò phạm tội của hai bị cáo trong vụ án là ngang nhau.

[6] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng b ị cáo thấy: Cả hai bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên bị cáo Lê Văn H có nhân thân rất xấu đã từng bị xét xử bằng ba bản án về tội Trộm cắp tài sản, sau khi ra trại bị cáo H không có ý thức rèn luyện bản thân, coi thường pháp luật tiến tục phạm tội.Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cả hai b ị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trác h nhiệm hình sự quy định tại đ iểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo H có mẹ là bà Lê thị Th2 được tặng thưởng Huy chương kháng chiến kháng chiến hạng nhất nên được hưởng thêm một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không phảichịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Đ iều 52 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, cả hai bị cáo là người nghiện ma túy, không chịu cai nghiện, tu dưỡng rèn luyện bản thân, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để các bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật đối với các bị cáo để các bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, rèn luyện bản thân cải tạo trở thành người tốt.

Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với cả hai bị cáo tại phiên tòa là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[7] Vật chứng của vụ án:

- 01 bì niêm phong ký hiệu L là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA TAURUS màu sơn đỏ - đen, BKS 20M8-2358, đăng ký xe mang tên Tạ Thị D Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN đã trả lại cho chị Tạ Thị D quản lý, sử dụng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về hình phạt bổ sung và án phí - Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với cả hai b ị cáo, nhưng theo biên bản xác minh và tại phiên tòa, cả hai bị cáo khai là người nghiện ma túy, khô ng có tài sản riêng, nên Hộ i đồng xét xử không phạt bổ sung đối với cả hai bị cáo.

- Án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Đối với chị Tạ Thị D là người đã cho X.H mượn chiếc xe mô tô BKS: 20M6-2358 là phương tiện X.H đ iều khiển chở H đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định chị D không biết X. H điều khiển chiếc xe trên để đ i mua ma túy sử dụng nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với chị D.

Về nguồn gốc số ma túy b ị thu giữ, H khai mua của một nam thanh niên không quen b iết và số tiền để mua ma túy còn có sự đóng góp của đối tượng tên Hiệp, do không xác định được lai lịch, địa chỉ của những người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

TuY bố: Bị cáo Lê Văn H; và Tạ X.H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

1. Về hình phạt:

- Áp dụng đ iểm c khoản 1 Đ iều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Đ iều 51 , Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H 30 (Ba mươi) tháng tù giam.

Thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 , Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Tạ X.H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết đ ịnh tạm giam bị cáo Lê Văn H và Tạ X.H mỗi b ị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Đ iều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu L bên trong chứa ma túy, theo biên bản giao nhận vật chứng số 239 ngày 02/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo H; bị cáo X.H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tu Y án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 218/2019/HSST ngày 22/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:218/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về