TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 218/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN
Ngày 31 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 73/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 251/2019/QĐXXST-DS ngày 15/5/2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Y, sinh năm 1985, nơi cư trú: Ấp B, xã N, huyện A, tỉnh An Giang.
Bị đơn: Ông Hà Văn L, sinh năm 1987, nơi cư trú: Ấp B, xã K, huyện A, tỉnh An Giang.
(Bà Y có mặt, ông L vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và bản tự khai cùng cùng với các tài liệu và chứng cứ kèm theo của bà Huỳnh Thị Y trình bày: Hôn nhân của bà với ông Hà Văn L là do cha mẹ định đoạt tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K ngày 13/3/2008. Cưới xong bà làm dâu bên chồng tại xã K được một thời gian, sau đó hai vợ chồng đi thành phố Hồ Chí Minh làm. Nguyên nhân xin ly hôn là do ông L bạo lực gia đình, uống rượu không chăm lo gia đình, có người phụ nữ khác. Bà và ông L đã ly thân từ năm 2011 cho đến nay, trong thời gian ly thân thì gia đình hai bên cũng đứng ra hàn gắn nhưng không được.
Xét thấy bà với ông L đã không còn sống chung từ lâu, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu xin được ly hôn với ông L.
Về con chung: Bà với ông L có 02 con chung: 01/ Huỳnh Thị Trà V, sinh ngày 10/11/2008; 02/ Huỳnh Thị Trà M, sinh ngày 01/10/2011. Hai cháu không theo họ cha là vì bà và ông L ly thân, gia đình tự ý đi làm giấy khai sinh cho cháu đi học theo họ mẹ. Hiện hai cháu do bà nuôi dạy, khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy hai cháu V và M, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Hà Văn L theo quy định, nhưng ông L vắng mặt, mặc dù trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án có phân công cán bộ đến tại nhà của ông L làm việc nhưng vẫn không gặp ông L để ghi lời khai.
Chứng cứ thu thập được: Tại biên bản làm việc ngày 24/4/2019 được ông Hà Văn T cho biết: Ông là cha ruột của ông L, còn bà Y trước đây là con dâu ông. Y và L sống chung nhưng không hạnh phúc, cải vả nhau, Y bỏ đi, L năn nỉ nhiều lần nhưng không về, từ năm 2011 thì đã ly thân cho đến nay. Theo ông khả năng hàn gắn của Y và L là không thể được. Về con chung: có 02 con chung hiện đang sống với Y.
Tại biên bản xác minh ngày 24/4/2019 được ông Nguyễn Văn T – Phó ấp B cho biết: Ông Hà Văn L vẫn còn đăng ký hộ khẩu tại ấp B, xã K, huyện A, tỉnh An Giang, theo hồ sơ hộ khẩu số 2145, ngày 20/3/2018 do ông Hà Văn T làm chủ hộ. Ông L đi làm công nhân trên Bình Dương vẫn thường xuyên về địa phương.
Tại phiên tòa bà Y bảo lưu ý kiến. Riêng ông L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông L theo thủ tục chung.
Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.
Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Về tố tụng: Bà Huỳnh Thị Y khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Hà Văn L, ông L cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông L được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 (hai) tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông L theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà Y, ông L do cha mẹ định đoạt, đi đến hôn nhân, có tổ cức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K vào ngày 13/3/2008 theo quy định, nên được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.
Xét yêu cầu của bà Y xin ly hôn với ông L. Hội đồng xét xử, xét thấy thời gian ly thân giữa bà Y và ông L đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Theo lời trình bày của ông T (cha ruột ông L) thì khả năng hàn gắn của bà Y và ông L là không thể, hai bên sống không hạnh phúc, đã ly thân từ năm 2011 cho đến nay. Hội đồng xét xử, xét thấy mâu thuẫn của bà Y và ông L không thể hàn gắn, thật sự trầm trọng, nên Hội đồng xét xử chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của bà Y theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Có 02 con chung: 01/ Huỳnh Thị Trà V, sinh ngày 10/11/2008; 02/ Huỳnh Thị Trà M, sinh ngày 01/10/2011, hiện hai cháu đang sống với bà Y, khi ly hôn bà Y yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy hai cháu V và M, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung. Hai cháu cũng trình bày nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung, Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận để cho bà Y tiếp tục nuôi dạy hai con chung là phù hợp.
[5] Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bà Y không yêu cầu cấp dưỡng, nên Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện của bà Y.
[6] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Y xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì sẽ khởi kiện bằng một vụ kiện khác.
[7] Về án phí: Bà Y là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân. Các bên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm b, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Y.
Về hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Y được ly hôn với ông Hà Văn L.
Giấy chứng nhận kết hôn số 11 ngày 13/3/2008 của Ủy ban nhân dân xã Khánh B không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
Về con chung: Bà Huỳnh Thị Y được tiếp tục nuôi dạy 02 con chung: 01/ Huỳnh Thị Trà V, sinh ngày 10/11/2008; 02/ Huỳnh Thị Trà M, sinh ngày 01/10/2011. Công nhận sự tự nguyện của bà Y không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung.
Bà Y cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
Về án phí: Bà Huỳnh Thị Y phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011131 ngày 26/2/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (bà Y đã nộp đủ).
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (31/5/2019) bà Y có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn này đối với ông L được tính kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.
Bản án 218/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn
Số hiệu: | 218/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về