Bản án 217/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 217/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 21/9/2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 86/2020/TLST-HNGĐ, ngày 21 tháng 4 năm 2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 25 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 11 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Thúy Ch, sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn M, xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

- Bị đơn: Anh Hà Văn H, sinh năm 1985;

Địa chỉ: Thôn M, xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

( Chị Ch có đơn xin xét xử vắng mặt, anh H vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hoàng Thị Thúy Ch trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hà Văn H kết hôn với nhau vào ngày 18/5/2012 tại UBND xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2020 thì Ph sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 3 năm 2020 cho đến nay. Chị xác định tình cảm vợ chồng đã không còn, mâu thuẫn đã thực sự trầm trọng, cuộc sống chung không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Hà Văn H.

- Về con chung: Chị và anh Hà Văn H có 02 con chung là cháu Hà Đông Hoàng Ph, sinh ngày 08/01/2013 và cháu Hà Thảo M, sinh ngày 03/01/2017. Sau ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Hà Thảo M, chị nhất trí để anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Hà Đông Hoàng Ph. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau.

- Về tài sản chung: Chi Ch xác định không có, nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về vay nợ chung: Chi Ch xác định không có, nên không đề nghị Toà án giải quyết.

* Bị đơn Hà Văn H trình bày:

Anh và chị Hoàng Thị Thúy Ch kết hôn với nhau năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Y vào ngày 18/5/2012, được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2020 thì Ph sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng sống ly thân từ khoảng tháng 3 năm 2020 đến nay, anh H xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị Ch, nay chị Ch nhất quyết ly hôn anh hoàn toàn nhất trí.

- Về con chung: Anh và chị Ch có 02 con chung là cháu Hà Đông Hoàng Ph, sinh ngày 08/01/2013 và cháu Hà Thảo M, sinh ngày 03/01/2017. Sau ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả 02 cháu. Anh không đề nghị chị Ch cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Anh và chị Ch có một số tài sản chung và anh sẽ nộp đơn trình bày về nội dung chia tài sản cho Tòa án sau.

- Về vay nợ chung: Anh và chị Ch không có vay nợ chung nên không đề nghị Toà án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát Ph biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát Ph biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Chị Ch và anh H kết hôn với nhau năm 2012 có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang vào ngày 18/5/2012, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì Ph sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Hiện chị Ch và anh H đã sống ly thân, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ch và anh H đã trầm trọng. Căn cứ vào các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ch và xử cho chị Hoàng Thị Thúy Ch được ly hôn với anh Hà Văn H. Về con chung đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Hà Thảo M, sinh ngày 03/01/2017 cho chị Hoàng Thị Thúy Ch được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; giao cháu Hà Đông Hoàng Ph, sinh ngày 08/01/2013 cho anh Hà Văn H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục .

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc chị Ch phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Hoàng Thị Thúy Ch có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn anh Hà Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Thúy Ch và anh Hà Văn H kết hôn với nhau năm 2012 có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang vào ngày 18/5/2012, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán của địa phương. Như vậy hôn nhân giữa chị Hoàng Thị Thúy Ch và anh Hà Văn H là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án chị Ch xác định cuộc sống chung vợ chồng ban đầu hạnh phúc, nhưng đến đầu năm 2020 thì Ph sinh mâu thuẫn vợ chồng, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng không thể H hợp được, nên vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đầu năm 2020 đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không quan tâm gì đến nhau.

Qua xác minh tại địa phương thể hiện chị Hoàng Thị Thúy Ch và anh Hà Văn H kết hôn với nhau từ năm 2012, sau khi kết hôn chị Ch và anh H sinh sống tại thôn Mường, xã L, huyện Y, trong cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn. Hội đồng xét xử thấy rằng do bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ch và anh H. Khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2020 đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không quan tâm gì đến nhau. Vì vậy có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ch và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và không thể tồn tại được một gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh phúc và tiến bộ. Ngoài ra thấy rằng quá trình giải quyết vụ án anh H xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị Ch, nay chị Ch nhất quyết ly hôn anh hoàn toàn nhất trí. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Ch với anh H là phù hợp với quy định tại Điều 56 - Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Ch và anh H có 02 con chung là cháu Hà Đông Hoàng Ph, sinh ngày 08/01/2013 và cháu Hà Thảo M, sinh ngày 03/01/2017. Sau ly hôn chị Ch có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Hà Thảo M, chị nhất trí để anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Hà Đông Hoàng Ph và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh H có nguyện vọng sau khi ly hôn được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả 02 cháu và không yêu cầu chị Ch phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử thấy rằng từ khi chị Ch và anh H sống ly thân thì cháu M ở cùng với chị Ch, ngoài ra cháu M hiện còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ, do vậy cần giao cháu Hà Thảo M cho chị Ch được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với cháu Hà Đông Hoàng Ph chị Ch nhất trí để anh H nuôi dưỡng, ngoài ra Hội đồng xét xử thấy rằng khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Quá trình giải quyết vụ án qua hỏi ý kiến của cháu Ph thì cháu Ph có nguyện vọng được ở với anh H. Do vậy để đảm bảo quyền lợi và sự Ph triển về mọi mặt của cháu Ph, thấy rằng cần giao cháu Hà Đông Hoàng Ph cho anh Hà Văn H được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật. Do các bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Chị Ch xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét. Quá trình giải quyết vụ án anh H có yêu cầu phản tố là đề nghị chia chiếc xe máy là tài sản chung của vợ chồng. Tòa án tiến hành thông báo cho anh H nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định, nhưng hết thời gian trong thông báo anh H không nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vay nợ chung: Các đương sự xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Hoàng Thị Thúy Ch phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 28; 147; 227; 228; 235; 238; 266; 267; 271; 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

* Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị Thúy Ch được ly hôn với anh Hà Văn H.

- Về con chung: Giao cháu Hà Thảo M, sinh ngày 03/01/2017 cho chị Ch được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Giao cháu Hà Đông Hoàng Ph, sinh ngày 08/01/2013 cho anh Hà Văn H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Ch và anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị Ch và anh H được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở và có quyền đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

- Về án phí: Chị Hoàng Thị Thúy Ch phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0002033, ngày 21/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên, chị Ch đã nộp đủ án phí.

Anh Hà Văn H không phải chịu án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được hay niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 217/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:217/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về