Bản án 217/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 217/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 31 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 64/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2019 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 210/2019/QĐXXST-DS ngày 26/4/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1972, nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Phạm Tấn M, sinh năm 1969, nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà P có mặt, ông M vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai cùng ngày 18/02/2019 cùng với các tài liệu và chứng cứ kèm theo của bà Nguyễn Thị P trình bày: Hôn nhân giữa bà với ông Phạm Tấn M do tự tìm hiểu yêu thương, sống chung với nhau vào năm 1988, không có tổ chức đám cưới nhưng có đăng ký kết hôn tại xã P vào ngày 27/11/2002. Năm 2011 bà và ông M thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm, ông M không chăm lo gia đình. Bà và ông M ly thân từ năm 2011 đến nay, trong thời gian ly thân gia đình hai bên không đứng ra hàn gắn được. Nhận thấy tình cảm giữa bà và ông M không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông M.

Về con chung: Bà và ông M có 03 con chung: 01/ Phạm Thị Mỹ H, sinh năm 1989; 02/ Phạm Thị N, sinh năm 1991; 03/ Phạm Thị Mỹ S, sinh năm 1996. Các con đều trưởng thành và sống tự lập được.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Phạm Tấn M theo quy định, nhưng ông M vắng mặt, mặc dù trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án có phân công cán bộ đến tại nhà của ông M làm việc nhưng vẫn không gặp ông M để ghi lời khai.

Chứng cứ thu thập được: Tại biên bản làm việc ngày 23/4/2019 được ông Trần Văn D cho biết: Ông là hàng xóm của ông M và bà P. Ông M, bà P sống chung khoảng năm 1988, theo ông biết bà P và ông M do mâu thuẫn tiền bạc, thường xuyên cãi nhau nhiều lần, hôn nhân không hạnh phúc, từ năm 2011 thì đã ly thân cho đến nay. Theo ông khả năng hàn gắn của P và M là không thể được. Về con chung: có 03 con chung nhưng tất cả đều đã trưởng thành, có công việc ổn định.

Tại biên bản xác minh ngày 23/4/2019 được ông La Văn T – Công an viên xã P cho biết: Ông Phạm Tấn M vẫn còn đăng ký hộ khẩu tại ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang, theo hồ sơ hộ khẩu số 2444, ngày 13/01/2014 do ông Phạm Tấn M làm chủ hộ. Ông M đi làm công nhân trên Bình Dương vẫn thường xuyên về địa phương.

Tại Phiên tòa bà P bảo lưu ý kiến. Riêng ông M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông M theo thủ tục chung.

Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị P khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Phạm Tấn M, ông M cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông M được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông M theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà P, ông M do tìm hiểu yêu thương rồi đi đến hôn nhân, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P vào ngày 27/11/2002 theo quy định nên được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu của bà P xin ly hôn với ông M. Hội đồng xét xử xét thấy thời gian ly thân giữa bà P và ông M đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Theo lời trình bày của bà D (hàng xóm của ông M) thì khả năng hàn gắng của bà P và ông M là không thể, hai bên thường xuyên cãi nhau. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn của bà P, ông M không thể hàn gắn, thật sự trầm trọng nên Hội đồng xét xử chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của bà P theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Bà P và ông M có 03 con chung: 01/ Phạm Thị Mỹ H, sinh năm 1989; 02/ Phạm Thị N, sinh năm 1991; 03/ Phạm Thị Mỹ S, sinh năm 1996. Các con đều trưởng thành và sống tự lập được nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà P xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì sẽ khởi kiện bằng một vụ kiện khác.

[6] Về án phí: Bà P là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân. Các bên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm b, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P.

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị P được ly hôn với ông Phạm Tấn M.

Giấy chứng nhận kết hôn số 332 ngày 27/11/2002 của Ủy ban nhân dân xã P không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị P phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011114 ngày 26/2/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (bà P đã nộp đủ).

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (31/5/2019) bà P có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn này đối với ông M được tính kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 217/2019/HNGĐ-ST ngày 31/05/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:217/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về