Bản án 216/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 216/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 209/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Châu Minh T, sinh ngày 25/7/1990, tại tỉnh K G. Thường trú: 118/27 Âu Dương Lân, Phường B, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Châu Hồng S và bà Lê Thị Mỹ D; Hoàn cảnh gia đình: chưa vợ, con; Tiền án: không có; Tiền sự:

- Ngày 13/7/2016 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng (chấp hành xong ngày 16/11/2017) - Ngày 08/10/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 15 tháng (chấp hành xong ngày 08/11/2019) - Ngày 14/8/2018 bị Công an xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản (chưa đóng phạt) Tạm giữ, tạm giam: 14/5/2020 (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Phan Hồng Ng, sinh năm: 1990 (vắng mặt) Minh.

Địa chỉ: Làng P, thị trấn Đ, huyện Đ Đ , tỉnh G L Chỗ ở: 70A Trần Bá Giao, phường N, quận G V, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Anh Vũ Long G, sinh năm: 1987 (vắng mặt) Địa chỉ: 105 Nguyễn Huệ, thị trấn Đ Đ, huyện Đ, tỉnh G L Người làm chứng:

1/ Anh Phạm Văn Tr, sinh năm: 1960 (vắng mặt) Địa chỉ: 93/2 Ấp CL, phường B T Đ, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Anh Trần Đại Đ, sinh năm: 1952 (vắng mặt) Địa chỉ: 428 Lũy Bán Bích, phường H T, quận T P, Thành phố Hồ Chí

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 10 phút ngày 14/5/2020, Đội Cảnh sát hình sự Công an quận Bình Tân tuần tra đến trước nhà số 657 An Dương Vương, phường B T Đ, quận B T phát hiện Châu Minh T điều khiển xe gắn máy biển số 81R4 – 2493 chở Vũ Long G có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra thu giữ trong túi quần trước bên phải của Trí có 03 gói nylon chứa tinh thể không màu và 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu chứa chất bột màu trắng trong bóp màu nâu ở túi quần sau bên phải của Trí. Qua khai thác nhanh, T cho biết các chất nêu trên là ma túy nên tổ tuần tra bàn giao cho Công an phường Bình Trị Đông lập biên bản và chuyển đến Cơ quan điều tra Công an quân Bình Tân để xử lý theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Châu Minh T khai nhận: Khoảng 07 giờ ngày 14/5/2020 Trí đến khu vực đường B V, phường P N L, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một thanh niên (không rõ lai lịch) mua 03 gói ma túy giá 100.000 đồng và 01 đoạn ống nhựa chứa ma túy giá 100.000 đồng về sử dụng. Đến khoảng 11 giờ 00 cùng ngày, Trí gặp Vũ Long G, Giang nhờ chở đi công việc bằng xe gắn máy biển số 81R4 – 2493, việc T mua ma túy Giang hoàn toàn không biết. Đồng thời, xe gắn máy nêu trên là của Anh Phan Hồng Ng cho bị cáo mượn làm phương tiện đi lại, việc bị cáo sử dụng đi mua ma túy, anh Ng không biết.

Theo Kết luận giám định số 826/KLGĐ-H ngày 22/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì:

01 gói được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Châu Minh T, Huỳnh Thanh Sang (Điều tra viên), Trần Đại Đ (Người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, bên trong có:

- Tinh thể không màu trong 03 gói nylon (ký hiệu mẫu m1) là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,4813g (không phẩy bốn tám một ba gam), loại Methamphetamine.

- Bột màu trắng trong 01 đoạn ống nhựa (ký hiệu mẫu m2) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1025g (không phẩy một không hai năm gam), loại Heroin.

Vật chứng vụ án gồm:

- 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Châu Minh T, Huỳnh Thanh Sang (Điều tra viên), Trần Đại Đ (Người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân và 01 bóp màu nâu.

- 01 điện thoại di động hiệu Viettel, số thuê bao 0865446431, 01 điện thoại di động hiệu Iphone và xe gắn máy biển số 81R4-2493, số khung 208Y010282, số máy 16S2010283 Cáo trạng số 212/CT-VKS ngày 25/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Châu Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Châu Minh T đồng ý với kết quả giám định, đồng thời khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phát biểu quan điểm giải quyết vụ án giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên bị cáo Châu Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng.

- Về vật chứng vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định và 01 bóp màu nâu.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Viettel, số thuê bao 0865446431, 01 điện thoại di động hiệu Iphone.

Trả lại cho Anh Phan Hồng Ng xe gắn máy biển số 81R4-2493, số khung 208Y010282, số máy 16S2010283.

Bị cáo không tranh luận với quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân và nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, tội danh và các quyết định tố tụng:

Lời khai nhận của bị cáo Châu Minh T tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai tại Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 10 phút ngày 14/5/2020, số 657 An Dương Vương, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, bị cáo Châu Minh T có hành vi cất giữ 03 gói nylon chứa tinh thể không màu và 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu chứa chất bột màu trắng thì bị lực lượng chức năng tạm giữ kiểm tra hành chính. Theo Kết luận giám định số 826/KLGĐ-H ngày 22/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh thì:

01 gói được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Châu Minh T, Huỳnh Thanh Sang (Điều tra viên), Trần Đại Đ (Người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, bên trong có:

- Tinh thể không màu trong 03 gói nylon (ký hiệu mẫu m1) là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,4813g (không phẩy bốn tám một ba gam), loại Methamphetamine.

- Bột màu trắng trong 01 đoạn ống nhựa (ký hiệu mẫu m2) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1025g (không phẩy một không hai năm gam), loại Heroin.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Quyết định khởi tố vụ án, Quyết định khởi tố bị can và Kết luận điều tra của Công an quận Bình Tân là có căn cứ, đúng trình tự luật định. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng thẩm quyền; ý kiến phát biểu tại phiên tòa của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân đánh giá nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, thể hiện sự liều lĩnh bởi chất ma túy là chất gây nghiện được nhà nước thống nhất quản lý, việc tàng trữ để sử dụng trái phép chất ma túy làm gia tăng tệ nạn nghiện ma túy, đồng thời làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo từng có nhiều tiền sự liên quan đến ma túy và nhiều lần bị Tòa án áp dụng biện xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên cần thiết phải áp dụng quy định điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt tù có thời hạn với mức án nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, cũng xét trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Châu Minh T, Huỳnh Thanh Sang (Điều tra viên), Trần Đại Đ (Người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân và 01 bóp màu nâu không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Viettel, số thuê bao 0865446431 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nên trả lại cho bị cáo.

- Xe gắn máy biển số 81R4-2493, số khung 208Y010282, số máy 16S2010283 thuộc sở hữu hợp pháp của Anh Phan Hồng Ng. Việc bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, anh Ng không biết nên trả lại xe cho anh Ng.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Châu Minh T phạm tội “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Châu Minh T 02(hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/5/2020.

2/ Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Châu Minh T, Huỳnh Thanh Sang (Điều tra viên), Trần Đại Định (Người chứng kiến) và hình dấu Công an phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân và 01 bóp màu nâu.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Viettel, số thuê bao 0865446431 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone.

- Trả lại cho Anh Phan Hồng Ng xe gắn máy biển số 81R4-2493, số khung 208Y010282, số máy 16S2010283.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số NK20/218TAM ngày 10/8/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Bình Tân).

3/ Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

4/ Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện quyền kháng cáo. Trong trường hợp vắng mặt, thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 216/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:216/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về