Bản án 216/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 216/2020/HS-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 220/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 250/2020/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Tô Văn M - tên gọi khác: Không; sinh năm 1987 tại TH; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Xóm H, xã V, huyện Đ, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 3/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Tô Văn D, sinh năm 1943 và con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1957; Bị cáo có vợ là Trần Thị N1, sinh năm 1992, có 01 con sinh năm 2013; Tiền án: Không;

Tiền sự: Tại Quyết định số 255/2018/QĐ -TA ngày 12/12/2018, Tòa án nhân dân thành phố TH ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Tô Văn M. Đến ngày 30/01/2020 M chấp hành xong.

Nhân thân: Tại bản án số 127/2007/HSST ngày 24/10/2007 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh TH xử phạt 02 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 29/4/2009 chấp hành xong hình phạt, ngày 10/6/2008 đã nộp xong án phí HSST và DSST.

Hiện bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 13/02/2020 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1957- trú tại tổ dân phố Đ, phường Đ, thành phố TH (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 00 phút ngày 13/02/2020 tổ công tác Công an phường Đ, thành phố TH làm nhiệm vụ kiểm soát tại khu vực tổ dân phố G của phường thì phát hiện một nam thanh niên đang đi bộ có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên tự khai tên là Tô Văn M. Quá trình kiểm tra, phát hiện tại túi quần phía sau bên phải của M đang mặc có 01 gói giấy màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng, M khai nhận đó là ma túy Heroine vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Tô Văn M có khối lượng 0,232 gam niêm phong ký hiệu M gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 329/KL -KTHS ngày 21/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu M gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,232 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Tô Văn M khai nhận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 13/02/2020, M đi xe buýt từ nhà đến khu vực tổ dân phố G, phường Đ mục đích mua ma túy sử dụng cho bản thân. M gặp và mua 01 gói ma túy(Heroine) của một người phụ nữ với giá 100.000đ. Mua xong M cất gói ma túy trên vào túi quần phía trước bên phải rồi đi tìm nơi sử dụng ma túy, khi đi đến khu vực cầu G thì bị tổ công tác của Công an phường Đ lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng theo quy định.

Vật chứng của vụ án gồm:

+ 01 (một) bì niêm phong ký hiệu M bên trong chứa ma túy.

Bản Cáo trạng số 229/CT -VKSTPTN ngày 20 tháng 4 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố bị cáo Tô Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, Tô Văn M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Tô Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Tô Văn M từ 18 đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu M Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, khách quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản cân xác định khối lượng, biên bản mở niêm phong vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Hồi 11 giờ 00 phút ngày 13/02/2020, tại khu vực tổ dân phố G, phường Đ, thành phố TH, Tô Văn M có hành vi tàng trữ 0,232 gam Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hành vi trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS Nội dung điều luật:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b...

c, Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật. [3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xét xử nghiêm minh để đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy:

Về nhân thân của bị cáo: Năm 2007 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh TH xử phạt bị cáo 24 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Về phần án phí bị cáo đã thi hành xong. Đối với số tiền 1.650.000đ phải trả cho anh Nguyễn Văn B. Tại phiếu trả lời yêu cầu xác minh số 24/TLXM ngày 24/3/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ xác nhận anh Nguyễn Văn B không có đơn yêu cầu thi hành án nên cơ quan Thi hành án không thụ lý đối với khoản tiền trên, nên áp dụng theo hướng có lợi cho người phạm tội xác định bị cáo không có tiền án. Tuy nhiên bị cáo là người nghiện ma túy năm 2018 đã bị Tòa án ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà vẫn tiếp tục lao vào con đường phạm tội. Điều đó thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật, cần phải có một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Hội đồng xét xử cân nhắc hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS. Tại phiên tòa xác định bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án:

+ Cần tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu M bên trong chứa ma túy hoàn trả sau giám định, mặt sau có 02 dấu tròn đỏ của phòng KTHS – Công an tỉnh TH cùng chữ ký của người ghi họ tên Trần Đức T và Ngô Đức C.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số Heroin bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người phụ nữ không rõ lai lịch, địa chỉ ở khu vực tổ dân phố G, phường Đ, thành phố TH. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân của người này, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự Tuyên bố: Bị cáo Tô Văn M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Tô Văn M 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/02/2020.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong ký hiệu M bên trong chứa ma túy hoàn trả sau giám định, mặt sau có 02 dấu tròn đỏ của phòng KTHS – Công an tỉnh TH cùng chữ ký của người ghi họ tên Trần Đức T và Ngô Đức C.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 286 ngày 27/4/2020 giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH) 3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Tô Văn M phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào Ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 216/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:216/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về