Bản án 215A/2021/HS-PT ngày 26/04/2021 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 215A/2021/HS-PT NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC; SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 239/2020/TLPT-HS ngày 30 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Quốc P về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và “Trộm cắp tài sản”.

Do có Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

- Bị cáo bị kháng nghị:

Nguyễn Quốc P, sinh năm 1994 tại tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quốc D, sinh năm 1963 và bà Lê Thị H, sinh năm 1964; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 05/6/2013, bị Tòa án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong bản án.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/6/2020, chuyển tạm giam ngày 17/6/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam, có mặt.

- B hại:

1. Ông Phạm Hải N, sinh năm 1993; trú tại: thành phố Hà Nội.

2. Bà Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1986; trú tại: tỉnh Lâm Đồng.

3. Ông Alek Sander V, sinh năm 1999; quốc tịch: Đ, hộ chiếu số: C73TM2Y2X; tạm trú tại: tỉnh Quảng Nam.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Fong Jenny Lok H, sinh năm 1988; quốc tịch: Austraylia, hộ chiếu số: N6235021; tạm trú tại: tỉnh Quảng Nam.

2. Ông Frederic F, sinh năm 1990; quốc tịch: Na uy, hộ chiếu số: 34019010; tạm trú tại: tỉnh Quảng Nam.

3. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1996; trú tại: tỉnh Phú Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trên cơ sở kết quả điều tra, đã xác định được:

Vào khoảng tháng 5 năm 2020, Nguyễn Quốc P đi từ tỉnh An Giang đến Thành phố Hồ Chí Minh để thăm em gái. Trên đường đi, do thiếu tiền tiêu xài cá nhân nên P nhớ lại sự việc trước đây P sử dụng Chứng minh nhân dân giả để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản (Năm 2012, Nguyễn Quốc P đã có hành vi sử dụng giấy Chứng minh nhân dân giả đ đăng ký tạm trú tại các phòng trọ ở Thành ph Hồ Chí Minh, rồi lợi dụng sơ hở của các bị hại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, hành vi này đã bị các cơ quan chức năng phát hiện và Tòa án nhân dân Quận 1 Thành ph Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù giam tại Bn án hình sự sơ thẩm s 109/2013/HSST ngày 05/6/2013). Sau đó, P đến khu vực Công viên P thuộc Quận X Thành phố Hồ Chí Minh để tìm và hỏi nên gặp được người đàn ông nhận làm Chứng minh nhân dân giả. Sau khi thỏa thuận thì người đàn ông yêu cầu P đưa 03 (ba) cái ảnh thẻ và số tiền công làm giả 1.500.000 đồng/03 cái Chứng minh nhân dân, rồi hẹn ngày hôm sau đến tại Công viên để nhận. Sau khi nhận được 03 (ba) Chứng minh nhân dân thì P nhìn thấy trên Chứng minh nhân dân có các nội dung sau: Lâm H, sinh ngày 01/4/1998; trú tại: Đay Sô, T Quới, Mỹ Xuyên, Sóc Trăng do Công an tỉnh Sóc Trăng cấp; Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 03/9/1996; trú tại: Khu phố 2, TT Hòa Vinh, Đông Hòa, Phú Yên do Công an tỉnh Phú Yên cấp và Nguyễn Trọng N, sinh ngày 31/01/1997; trú tại: 175/TTH, Tân Xuân, Ba Tri, Bến Tre do Công an tỉnh Bến Tre cung cấp; các Chứng minh nhân dân này đều dán ảnh của Nguyễn Quốc P.

Sau đó, P đón xe ra thành phố Đà Nẵng rồi đi đến thành phố H, tỉnh Quảng Nam vào ngày 05/5/2020. Trên đường đi P sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung A70 kết nối mạng internet để tìm nơi lưu trú có phòng ở tập thể (phòng dorm) rồi đặt phòng, P đến khách sạn C (địa chỉ: thành phố H) rồi dùng Chứng minh nhân dân mang tên Lâm H để đăng ký tạm trú. Tại đây, lợi dụng sơ hở người khách du lịch nên P đã lấy trộm 1.000.000 đồng của chị Fong Jenny Lok H (sinh năm 1988; Quốc tịch: Australia) rồi rời khỏi khách sạn, để lại Chứng minh nhân dân này. Hiện nay, Chứng minh nhân dân đã bị thất lạc, chỉ còn bản ảnh do chủ khách sạn C cung cấp. Sau khi bị mất tài sản, chị Fong Jenny Lok H đã trình báo chủ khách sạn nên được bồi thường số tiền 500.000 đồng, do đó chị Fong Jenny Lok H không trình báo Cơ quan Công an.

Ngày 04/6/2020, P đến tạm trú tại L (thành phố Đà Nẵng), tại đây P sử dụng Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quốc P để đăng ký tạm trú. Khoảng 05 giờ ngày 05/6/2020, P đi đến các phòng để thăm dò xem có khách nào sơ hở tài sản thì thực hiện hành vi trộm cắp, sau đó P nhìn thấy có 01 phòng không khóa cửa, nhìn vào thì thấy anh Phạm Hải N (sinh năm 1993; trú tại: thành phố Hà Nội) và chị Nguyễn Thị Hoài T (sinh năm 1986; trú tại: tỉnh Lâm Đồng) đang nằm ngủ ở hai giường khác nhau, P đi vào lén lút đột nhập và lấy trộm của anh Phạm Hải N 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S8, trị giá 4.794.000 đồng; lấy trộm của chị Nguyễn Thị Hoài T số tiền 450.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Redmi 8, màu xanh trị giá 2.093.000 đồng. Sau khi trộm cắp số tài sản trên, do điện thoại Samsung Galaxy S8 có mật khẩu, P không thể đăng nhập và sử dụng được nên P đã đem bán tại một cửa hàng điện thoại ở thành phố Đà Nẵng (không nhớ địa chỉ) được 1.500.000 đồng rồi sử dụng để tiêu xài cá nhân; còn điện thoại di động hiệu Redmi 8 thì P giữ lại để sử dụng.

Ngày 05/6/2020, Nguyễn Quốc P đến thành phố H, tỉnh Quảng Nam để chơi. Tại đây, P sử dụng Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn Đ để đăng ký thuê phòng tại Homestay D, thuộc thành phố H. Khoảng 06 giờ ngày 06/6/2020, lợi dụng sơ hở của khách ngủ chung phòng, P đã lấy trộm 01 ví bên trong có số tiền 850.000 đồng của anh Frederic F (sinh năm 1990; Quốc tịch: Na Uy), sau đó rời khỏi khách sạn. Đến khoảng 05 giờ ngày 09/6/2020, P đi vào Homestay D rồi vào phòng ở của khách nước ngoài, lấy trộm của anh Aleksander V (sinh năm 1999; Quốc tịch: Đ) 01 điện thoại di động hiệu IPhone XR trị giá 10.500.000 đồng và số tiền khoảng 450.000 đồng để trong ví gần điện thoại.

Sau khi trộm cắp tài sản, P ra Đà Nẵng rồi đón xe vào tỉnh Bình Định. Tại đây, P đến khách sạn N (thành phố Q) rồi sử dụng Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Trọng N để đăng ký tạm trú thì bị Công an phường T, thành phố Q kiểm tra hành chính, phát hiện Chứng minh nhân dân giả nên mời P về trụ sở làm việc. Tại Công an phường T, thành phố Q, P đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình tại thành phố H, tỉnh Quảng Nam và giao nộp vật chứng. Sau đó, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Quy Nhơn đã bàn giao Nguyễn Quốc P cho Cơ quan CSĐT Công an thành phố H để điều tra, xử lý.

Tang vật tạm giữ:

+ 03 Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quốc P, Nguyễn Trọng N và Nguyễn Văn Đ;

+ 01 điện thoại di động Iphone XR màu đen. Ngày 17/6/2020, Cơ quan CSĐT Công an thành phố H đã trao trả lại cho anh Aleksander V theo Quyết định xử lý vật chứng số 24.

+ 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu xanh. Ngày 10/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an quận S đã trao trả lại cho chị Nguyễn Thị Hoài T theo Quyết định xử lý vật chứng số 63.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, đây là điện thoại di động cá nhân của Nguyễn Quốc P.

+ 01 USB ghi hình của Homestay D do chủ Homestay cung cấp cho Cơ quan điều tra.

* Tại Kết luận định giá tài sản số 39/KL-ĐGTS ngày 12/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố H, kết luận 01 điện thoại di động Iphone XR màu đen của anh Aleksander V (sinh năm 1999; Quốc tịch: Đ), trị giá 10.500.000 đồng.

* Tại Kết luận định giá tài sản số 49/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 30/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, kết luận:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi 8 màu xanh, số IMEI 861976040382557, dung lượng bên trong máy 64GB (đã qua sử dụng) có giá trị 2.093.000 đồng (hai triệu không trăm chín mươi ba nghìn đồng);

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S8 màu đen, có dung lượng bên trong máy 128GB (đã qua sử dụng), có giá trị 4.794.000 đồng (bốn triệu bảy trăm chín mươi tư triệu đồng).

* Tại Kết luận giám định số 115/PC09 ngày 27/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam, xác định: Phôi trên các Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Trọng N so với phôi giấy Chứng minh nhân dân do Phòng Cảnh sát QLHS về TTXH Công an tình Quảng Nam cung cấp được in từ cùng phương pháp in. Các giấy Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Trọng N bị thay ảnh.

Về dân sự: Chị Fong Jenny Lok H đã được chủ khách sạn bồi thường số tiền 500.000 đồng nên không có yêu cầu gì. Chị Nguyễn Thị Hoài T và anh Aleksander V đã nhận lại điện thoại di động của mình nên chị T và anh Aleksander V không yêu cầu gì. Riêng anh Phạm Hải N và anh Frederic F yêu cầu bồi thường lại tài sản đã mất.

Các tình tiết có liên quan trong vụ án:

- Đối với người đàn ông nhận làm giấy Chứng minh nhân dân giả cho bị can P tại khu vực Công viên P thuộc Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, do bị can chỉ mô tả đặc điểm của người đàn ông, không xác định họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở để tiến hành điều tra.

- Đối với Chứng minh nhân dân mang tên của Nguyễn Văn Đ, qua điều tra xác định vào tháng 4 năm 2020 trong quá trình đi giao gas tại Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh, Đ đã làm mất ví kèm giấy Chứng minh nhân dân. Hiện Đ đã làm thủ tục cấp mới nên không yêu cầu nhận lại.

- Đối với Chứng minh nhân dân mang tên Lâm H, qua ủy thác điều tra, Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Sóc Trăng đã cung cấp bản in Giấy chứng minh nhân dân kèm ảnh của công dân Lâm H, kết quả ảnh trên bản cấp không đúng với Chứng minh nhân dân do bị can P sử dụng.

- Đối với Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Trọng N, qua ủy thác điều tra, công dân Nguyễn Trọng N đã đi khỏi nơi cư trú nên không thể làm việc được.

- Đối với chiếc điện thoại di động Samsung A70 của bị can Nguyễn Quốc P, đây là phương tiện hỗ trợ để P thực hiện thủ đoạn nhắn tin, đăng ký tìm khách sạn, tuy nhiên vì thiếu tiền tiêu xài nên P đã cầm cố tại tiệm cầm đồ ở thành phố Đà Nẵng nhưng P không nhớ rõ địa chỉ, do đó không có cơ sở để xác định, truy thu đối với tài sản này.

- Tại Biên bản ghi lời khai ngày 09/6/2020 tại Công an phường C, thành phố H, chị Nguyễn Thị T (chủ Homestay D; sinh năm 1984; trú tại: thành phố H) có nội dung: Sau khi phát hiện bị kẻ gian thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, chị T đã thông báo cho khách trong homestay thì ngoài việc anh Fredrik F và anh Aleksander V mất trộm tài sản thì còn chị Ezgi Y mất 01 sợi dây chuyền vàng và khoảng 1.500.000 đồng; anh Vanranst J bị mất khoảng 3.000.000 đồng. Tuy nhiên, các bị hại không trình báo cho Cơ quan chức năng để điều tra xác minh, đồng thời qua quá trình làm việc, bị can P không thừa nhận việc trộm cắp tài sản đối với 02 cá nhân nêu trên, ngoài lời khai của chị T và 02 bị hại thì không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh, do đó không có cơ sở để xem xét, truy cứu trách nhiệm theo quy định.

Qua quá trình điều tra, bị can Nguyễn Quốc P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.

Tại bản Cáo trạng số 89/CT-VKS-P2 ngày 07/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đã truy tố bị cáo Nguyễn Quốc P về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2020/HS-ST ngày 17/11/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc P phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc P 02 (hai) năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc P 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sụ năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Quốc P phải chấp hành cho cả hai tội là 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, ngày 11/6/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không kháng cáo.

Ngày 27/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam có Kháng nghị số 29/QĐ-VKSQN ngày 27/11/2020 đề nghị Hội đồng xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo đối với cả hai tội.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng giữ nguyên nội dung kháng nghị và cho rằng sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị, tăng hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Quốc P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của bản án sơ thẩm. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Vì muốn có tiền tiêu xài nên vào khoảng tháng 5 năm 2020, bị cáo Nguyễn Quốc P đã thuê người làm 03 Chứng minh nhân dân giả, các ảnh thẻ của mình do bị cáo P đưa cho người làm giả. Sau khi có được 03 Chứng minh nhân dân giả, trong thời gian từ ngày 05/5/2020 đến ngày 08/6/2020, bị cáo P đã sử dụng để đăng ký lưu trú tại các khách sạn trên địa bàn thành phố H, tỉnh Quảng Nam và quận S, thành phố Đà Nẵng nhằm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Cụ thể, bị cáo P đã 04 lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, với tổng giá trị tài sản theo kết luận định giá là 20.137.000 đồng. Trong đó vụ thứ 1 và thứ 3 tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nên không cấu thành tội phạm; vụ thứ 2 và thứ 4 có tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 18.287.000 đồng (7.337.000 đồng + 10.950.000 đồng = 18.287.000 đồng).

[2] Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Quốc P đã phạm tội: “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” với hai tình tiết định khung tăng nặng: “Phạm tội 02 lần trở lên”, “Làm từ 02 đến 05 tài liệu hoặc giấy tờ khác” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 như bản án sơ thẩm đã qui kết là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam, thấy rằng:

- Đối với tội “Trộm cắp tài sản”: Ngày 05/6/2013, Tòa án nhân dân quận 1, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (tài sản bị chiếm đoạt trị giá 12.140.000 đồng). Sau khi chấp hành xong hình phạt tù, mặc dù đã được xóa án tích nhưng bị cáo vẫn không có ý thức chấp hành pháp luật mà tiếp tục phạm tội nhiều lần (tổng tài sản bị chiếm đoạt trị giá 18.287.000 đồng). Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm tù là có phần nhẹ, không đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

- Đối với tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”: Bị cáo thực hiện cả hai hành vi “làm giả” và “sử dụng”, phạm vào hai tình tiết tăng nặng định khung quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự, quy định hình phạt từ 02 năm tù đến 5 năm tù. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm tù (mức thấp nhất của khung hình phạt) là nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

[4] Vì vậy, kháng nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Quốc P đối với cả hai tội là có căn cứ chấp nhận.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam;

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 53/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam về phần hình phạt.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc P phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc P 02 (hai) năm 06 tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc P 01 (một) năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Quốc P phải chấp hành cho cả hai tội là 04 (bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, ngày 11/6/2020.

2. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 215A/2021/HS-PT ngày 26/04/2021 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và trộm cắp tài sản

Số hiệu:215A/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về