Bản án 215/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 215/2019/HSST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 6 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 275/2019/HSST, ngày 21/5/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2458/2019/QĐXXST-HS, ngày 29/5/2019 đối với các bị cáo:

1. Trần Đặng Phi H (tên gọi khác: Ốc); Giới tính: Nam; Sinh năm: 1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 130/1 Tô Hiến Thành, Phường A, Quận B, Thành phố C; Chỗ ở: 629/8B Cách Mạng Tháng Tám, Phường A, Quận B, Thành phố C; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Đặng Thế T (chết) và bà Nguyễn Thị Tuyết L; Hoàn cảnh gia đình: có vợ là bà Nguyễn Thị L2 có 01 con (sinh năm 2013); Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 08/9/2017, Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phồ Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số: 81/2017/HSST.

Tạm giữ, tạm giam ngày: 15/02/2017 - Có mặt.

2. Phan Sỹ K; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 156/7P Tô Hiến Thành, Phường A, Quận B, Thành phố C; Chỗ ở: 382/12/20A Tân Kỳ Tân Quý, phường D, quận E, Thành phố C; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Ngọc T2 và bà Chế Thị L3; Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 01/12/2017, Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phồ Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số: 120/2017/HSST. Ngày 13/12/2018, bị cáo Phan Sỹ K đã chấp hành xong hình phạt tù.

Tạm giữ, tạm giam ngày: 13/12/2018 - Có mặt.

3. Phạm Quốc D (tên gọi khác: Dũng Khai); Giới tính: Nam; Sinh năm: 1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 13/40/9 Dân Tiến, Phường R, quận T, Thành phố C; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn c (chết) và bà Lê Thị N; Hoàn cảnh gia đình: có vợ là bà Nguyễn Thị Thanh T3 có 02 con (con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2007); Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 05/5/1993, Công an Quận 10 bắt đưa đi cưỡng bức lao động vì “Trộm cắp tài sản của công dân”.

+ Ngày 25/8/1993, Công an Quận Tân Bình bắt đưa đi cưỡng bức lao động vì “Trộm cắp tài sản của công dân”.

+ Ngày 02/8/1999, Tòa án nhân dân Thành phồ Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản của công dân” theo Bản án số: 1578/HSST.

+ Ngày 19/5/2005, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Thành phồ Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” theo Bản án số: 812/HSPT.

+ Ngày 09/12/2009, Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phồ Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số: 149/2009/HSST.

Tạm giữ, tạm giam ngày: 21/12/2017 - Có mặt.

Những người tham gia tố tụng khác:

- Người bị hại:

1/ Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Hoàng K

Trụ sở: 830/12/3 Phạm Văn Bạch, Phường A, quận T, Thành phố C.

Do ông Nguyên Trọng K là giám đốc làm đại diện - Vắng mặt.

2/ Ông Lương Văn L4; Sinh năm: 1948

Thường trú: 31 đường 42, phường Y, Quận U, Thành phố C.

Chỗ ở: 1443 Nguyễn Cư Trinh, phường I, Quận O, Thành phố C - Vắng mặt.

3/ Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ An N

Trụ sở: 64 Hai Bà Trưng, phường P, Quận S, Thành phố C.

Do ông Lê Huy V làm đại diện theo ủy quyền - Có mặt.

4/ Ông Ngô Hùng D; Sinh năm: 1943 Thường trú: Ấp F, xã G, huyện H, tỉnh J.

Chỗ ở: 47/3 Quách Điêu, phường K, huyện L, Thành phố C - Có mặt.

5/ Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ Long V

Trụ sở: 103 Đào Duy Anh, Phường Z, quận X, Thành phố C.

Do ông Võ Văn B làm đại diện theo ủy quyền - Có mặt.

6/ Ông Võ Văn L4; Sinh năm: 1963.

Thường trú: 1153 Tự Lập, Phường V, quận T, Thành phố C - Có mặt.

7/ Bà Phạm Thị H; Sinh năm: 1975 Thường trú: Ấp N, xã M, huyện A2, tỉnh B2.

Chỗ ở: 45 Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Q2, Quận S, Thành phố C - Có mặt.

8/ Ông Hồ Thạch N; Sinh năm: 1991

Thường trú: 888/64/47A18 Lạc Long Quân, Phường R2, quận T, Thành phố C - Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Lê Thanh H3; Sinh năm: 1971

Thường trú: 29 ấp Bình Chánh Đông, xã M2, huyện N2, tỉnh V2.

Chỗ ở: 152/29 đường 304, Phường G2, quận L2, Thành phố C -Vắng mặt.

2/ Ông Trần Ngọc D3; Sinh năm 1952

Thường trú: 02 Cách Mạng Tháng Tám, phường E2, Quận S, Thành phố C.

Chỗ ở: Số 39 đường 39, phường Tân Quy, Quận P2, Thành phố C -Vắng mặt.

3/ Ông Trần Tuấn K3; Sinh năm: 1980

Thường trú: Số 106 đường số 3, phường J3, quận H2, Thành phố C.

Chỗ ở: 351/67 Lê Văn Sỹ, Phường P3, Quận Y2, Thành phố C - Vắng mặt.

4/ Ông Đoàn B; Sinh năm: 1962

Thường trú: 385/8 Lê Văn Thọ, Phường S3, quận H2, Thành phố C - Vắng mặt.

5/ Ông Đàm Quang H; Sinh năm: 1971 Thường trú: xã Q3, huyện W3, Thành phố E3.

Chỗ ở: 777 Huỳnh Tấn Phát, phường F2, quận P2, Thành phố C -Vắng mặt.

6/ Ông Hồ Anh N; Sinh năm: 1996.

Thường trú: ấp 6, xã G2, huyện H2, tỉnh J2 - Vắng mặt.

7/ Ông Phạm Đức D; Sinh năm 1982

Thường trú: 519/59A, đường Âu Cơ, phường K2, quận E, Thành phố C.

Chỗ ở: 53/34/107 Bình Lợi, Phường L2, quận L2, Thành phố C - Vắng mặt.

8/ Bà Lưu Thị Đ; Sinh năm: 1955

Thường trú: 508/4 Nguyễn Đình Chiểu, Phường X2, Quận Y2, Thành phố C - Vắng mặt.

9/ Ông Ngô Chánh T; Sinh năm: 1976

Thường trú: 508/4 Nguyễn Đình Chiểu, Phường T4, Quận Y2, Thành phố C.

Chỗ ở: 354/89/26 Phan Văn Trị, Phường Y4, quận L2, Thành phố C - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tăt như sau:

Từ tháng 9/2016 đến ngày 15/02/2017 Trần Đặng Phi H, Phan Sỹ K, Phạm Quôc D cùng với các đối tượng Tuấn Quán, Bình, Cường Điên (chưa rõ lai lịch) thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh bằng thủ đoạn dàn cảnh giả vờ nói chuyện với nhân viên bảo vệ khách sạn, quán cà phê, ...nhằm mục đích đánh lạc hướng làm cho nhân viên bảo vệ mất cảnh giác để lén lút bí mật lấy trộm xe mô tô rồi đem bán lấy tiền tiêu xài, Hùng và đồng phạm đã thực hiện 08 vụ trộm cắp tài sản tại Quận 3 và quận Tân Bình cụ thể như sau:

Vụ thứ 1:

Khoảng 11 giờ, ngày 27/9/2016, anh Trần Văn T là nhân viên bảo vệ tại quán cà phê Teemay số 119 Cộng Hòa, Phường 12, Quận Tân Bình đang làm nhiệm vụ giữ xe. Lúc này, Phạm Quốc D điều khiển xe mô tô Wave (chưa xác định biển số) chở H đến trước quán cà phê Teemay, H xuống xe bên ngoài quán còn D đến giả vờ nói chuyện với anh T nhằm mục đích đánh lạc hướng để H và B đi vào trong bãi gửi xe, đến chỗ để xe Airblade, biển số 59S2 - 084.97 của anh Lê Thanh H (Thường trú: 29 ấp Bình Chánh Đông, xã M2, huyện N2, tỉnh V2) dùng đoản bẻ khóa lấy trộm xe rồi tẩu thoát. Sau khi lấy trộm được xe Airblade trên, H khai bán cho Trường Dâm với giá 8.000.000 đồng. H lấy 2.700.000 đồng, còn lại H chia cho D 2.700.000 đồng và tên B 2.600.000 đồng tiêu xài cá nhân.

Tại bản Kết luận định giá số: 311 ngày 24/02/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Tân Bình kết luận: Xe Airblade, màu trắng - xám, biển số 59S2 - 084.97 có trị giá là 38.000.000 đồng. Xe không thu giữ được.

Vụ thứ 2:

Khoảng 11 giờ 50 phút, ngày 01/12/2016, ông Lương Văn L (Thường trú: 31 đường 42, phường Y, Quận U, Thành phố C) điều khiển xe mô tô Honda PCX màu đỏ-nâu-đen, biển số 59C1-085.58 đến nhà số 1032 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 5, quận Tân Bình để trông nhà. Lúc này, Phạm Quốc D điều khiển xe mô tô Wave (chưa rõ biển số) chở H dừng xe bên ngoài ngôi nhà số 1032 Cách Mạng Tháng Tám, H xuống xe, còn D đến giả vờ nói chuyện với ông L nhằm mục đích đánh lạc hướng để H và B đi vào trong nhà, đến chổ để xe PCX, biển số 59C1-085.58 dùng đoản bẻ khóa lấy trộm xe này rồi chạy tẩu thoát. Sau khi lấy trộm được xe PCX trên, H khai: D bán xe mô tô này cho Ngô Chánh T (Thường trú: 508/4 Nguyễn Đình Chiểu, Phường L, Quận U) với giá 12.000.000 đồng. D chia đều cho H và tên B mỗi người 4.000.000 đồng tiêu xài cá nhân. Tại Cơ quan CSĐT, T không thừa nhận mua xe mô tô PCX, biển số 59C1-085.58 do D, H và B trộm cắp mà có.

Tại bản Kết luận định giá số: 294 ngày 08/9/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Tân Bình kết luận: Xe PCX màu đỏ-nâu-đen, biển số 59C1-085.58 có trị giá là 32.000.000 đồng. Xe không thu hồi được.

Vụ thứ 3:

Khoảng 11 giờ, ngày 02/12/2016, anh Phạm Quang A là bảo vệ khách sạn Paracel, tại số 485 Hoàng Sa, Phường 8, Quận 3 đang làm nhiệm vụ trục gác. Lúc này, Phạm Quốc D điều khiển xe mô tô Wave (chưa rõ biển số) đến giả vờ nói chuyện với anh A nhằm mục đích đánh lạc hướng để đồng phạm là B chở Trần Đặng Phi H đến dừng xe bên ngoài, H xuống xe đi vào trong khách sạn, đến chỗ để xe SH150 màu trắng, biển số 59T1-025.38 của anh Trần Ngọc D (Thường trú: 39 đường 39, phưcmg Tân Quy, Quận P2, Thành phố C) dùng đoản bẻ khóa lấy trộm xe này rồi tẩu thoát. Sau khi trộm cắp được xe SH trên, H khai: D bán xe mô tô này cho Ngô Chánh T được 45.000.000 đồng. D chia đều cho H và B mỗi người 15.000.000 đồng tiêu xài cá nhân. Tại Cơ quan CSĐT, T không thừa nhận mua xe mô tô SH150, biển số 59T1-025.38 do D, H và tên B trộm cắp mà có.

Tại bản Kết luận định giá số: 27 ngày 17/02/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Quận 3 kết luận: Xe SH150, màu trắng, biển số 59T1- 025.38 có trị giá là 125.000.000 đồng. Xe không thu hồi được.

Vụ thứ 4:

Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 12/12/2016, ông Ngô Hùng D là bảo vệ đang ngồi trực gác và ăn cơm tại nhà số 351/67 Lê Văn Sỹ, Phường 13, Quận

3. Phạm Quốc D điều khiển xe mô tô Wave (chưa rõ biển số) đến giả vờ gọi ông D ra nói chuyện nhằm mục đích đánh lạc hướng để đồng bọn là Tuấn Quắn chở Trần Đặng Phi H đến dừng xe bên ngoài, H xuống xe đi vào trong nhà, đến chỗ để xe SH, màu đen, biển số 59V2-133.71 của anh Trần Tuấn K (Thường trú: Số 106 đường số 3, phường J3, quận H2, Thành phố C) dùng đoản bẻ khóa xe lấy trộm xe này rồi chạy tẩu thoát. Sau khi trộm cắp được xe SH trên, H khai: D bán xe mô tô này cho Ngô Chánh T được 32.000.000 đồng. D chia cho H và Tuấn Quắn mỗi người 10.000.000 đồng, còn D lấy 12.000.000 đồng tiêu xài cá nhân. Tại Cơ quan CSĐT, T không thừa nhận mua xe mô tô SH, màu đen, biển số 59V2-133.71 do D, H và Tuấn Quắn trộm cắp mà có.

Tại bản Kết luận định giá số: 97 ngày 12/7/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Quận 3 kết luận: Xe SH, màu đen, biển số 59V2-133.71 có trị giá là 52.500.000 đồng. Xe không thu hồi được.

Vụ thứ 5:

Khoảng 19 giờ, ngày 09/01/2017, anh Nguyễn Anh T (Thường trú: 776/16 Phạm Văn Bạch, Phường K5, quận M3) là bảo vệ tại quán cà phê số 78 Trần Quốc Thảo, Phường 7, Quận 3 đang làm nhiệm vụ giữ xe. Phạm Quốc D điều khiển xe mô tô Wave đến giả vờ nói chuyện với anh T nhằm mục đích đánh lạc hướng để Cường Điên chở Phan Sỹ K đến dừng xe bên ngoài, K đi vào bãi xe, đến chổ để xe SH150, màu đỏ - đen - bạc, biển số 59V1 - 452.08 của anh Đoàn B (Thường trú: 385/8 Lê Văn Thọ, Phường S3, quận H2, Thành phố C) dùng đoản bẻ khóa lấy trộm xe rồi chạy tẩu thoát. Sau khi trộm cắp được xe SH trên, K khai: D bán xe mô tô này cho ai K không biết được 32.000.000 đồng. D chia cho K và Cường Điên mỗi người 10.000.000 đồng, còn D lấy 12.000.000 đồng tiêu xài cá nhân.

Tại bản Kết luận định giá số: 56 ngày 26/4/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Quận 3 kết luận: Xe SH150, màu đỏ - đen - bạc, biển số 59V1 - 452.08 có trị giá là 80.000.000 đồng. Xe không thu hồi được.

Vụ thứ 6:

Khoảng 19 giờ, ngày 11/01/2017, anh Đàm Quang H (Thường trú: 777 Huỳnh Tấn Phát, phường F2, quận P2, Thành phố C) điều khiển xe SH150R, màu đỏ, biển số 55P7-2629 đến siêu thị thế giới di động số 182 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 7, Quận 3 gửi xe rồi vào mua đồ. Phạm Quốc D điều khiển xe mô tô Wave đến giả vờ gọi bảo vệ ra nói chuyện nhằm mục đích đánh lạc hướng để C chở Phan Sỹ K đến dừng xe bên ngoài, K đi vào trong bãi gửi xe, đến chổ để xe SH150R, biển số 55P7-2629 dùng đoản bẻ khóa lấy trộm xe rồi tẩu thoát. Sau khi trộm cắp được xe SH trên, K khai: D bán xe mô tô này cho ai K không biết được bao nhiêu tiền. D chia cho K và Cường Điên mỗi người 10.000.000 đồng, còn lại D lấy tiêu xài cá nhân.

Tại bản Kết luận định giá số: 25 ngày 17/02/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Quận 3 kết luận: Xe SH150R, màu đỏ, biển số 55P7-2629 có trị giá là 120.000.000 đồng. Xe không thu hồi được.

Vụ thứ 7:

Khoảng 10 giờ 45 phút, ngày 14/02/2017, anh Đinh Đức V (Thường trú: 64/50/1/3 Nguyễn Khoái, Phường N6, Quận M6) là bảo vệ đang làm nhiệm vụ giữ xe tại quán cà phê GoGi, số 127 Nguyễn Hồng Đào, Phường 14, quận Tân Bình. Phạm Quốc D điều khiển xe mô tô Wave đến giả vờ nói chuyện với anh V nhằm mục đích đánh lạc huớng để B chở Trần Đặng Phi H đến dừng xe ở ngoài quán, H đi vào trong bãi gửi xe, đến chỗ để xe SH150i, màu trắng - đen, biển số 93P1-419.29 của anh Hồ Anh N (Thường trú: ấp 6, xã G2, huyện H2, tỉnh J2) dùng đoản bẻ khóa lấy trộm xe rồi tẩu thoát. Sau khi trộm được xe SH trên, H khai: D bán xe mô tô này cho Ngô Chánh T được 45.000.000 đồng. D chia đều cho H, D và B mỗi người 15.000.000 đồng tiêu xài cá nhân. Tại Cơ quan CSĐT, T không khai nhận mua xe mô tô SH, biển số 93P1-419.29 do D, H và B trộm cắp mà có.

Tại bản Kết luận định giá số: 196 ngày 06/6/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Tân Bình kết luận: Xe SH150i, màu trắng - đen, biển số 93P1-419.29 có trị giá là 160.000.000 đồng. Xe không thu hồi được.

Vụ thứ 8:

Khoảng 11 giờ, ngày 15/02/2017, tại quán cà phê TAB, số 42-44 Nguyễn Hiền, Phường 4, Quận 3, anh Hồ Thạch N (Thường trú: 888/64/47A18 Lạc Long Quân, Phường R2, quận T, Thành phố C) là bảo vệ của quán đang làm nhiệm vụ giữ xe. Phạm Quốc D điều khiển xe mô tô Wave đến giả vờ gọi anh N ra nói chuyện nhằm mục đích đánh lạc hướng để B chở Trần Đặng Phi H đến dừng xe ở ngoài quán, H xuống xe đi vào trong quán cà phê TAB, đến vị trí xe SH150i, màu xám-đen, biển số 59D1-904.15 của anh Phạm Đức Du (Thường trú: 519/59A, đường Âu Cơ, phường K2, quận E, Thành phố C) dùng đoản bẻ khóa lấy trộm xe SH rồi tẩu thoát thì bị anh N phát hiện nắm lấy càng sau xe SH kéo lại nên bị té ngã. H bỏ xe chạy bộ về hướng Đường số 4, Cư xá Đô Thành, phường 4, Quận 3 thì người dân đuổi theo bắt giữ được H giao cho Công an Quận 3 điều tra xử lý. Riêng D và tên B chạy thoát.

Tại bản Kết luận định giá số: 31 ngày 24/02/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Quận 3 kết luận: Xe SH150i, màu xám-đen, biển số 59D1- 904.15 có trị giá là 62.500.000 đồng. Xe thu hồi được.

Sau khi bị bắt quả tang, tại cơ quan CSĐT Trần Đặng Phi H khai nhận hành vi đối với 06 vụ trộm cắp nêu trên.

Ngày 13/6/2017, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 6 ra lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Phan Sỹ K về hành vi “Trộm cắp tài sản” trong vụ án khác và ngày 01/12/2017, Tòa án nhân dân Quận 6 xử phạt Khoa 18 tháng tù giam. Tại cơ quan Cảnh sát Điều tra Phan Sỹ K khai nhận hành vi phạm tội trong 02 vụ án nêu trên.

Ngày 21/12/2017, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt Phạm Quốc D theo Quyết định truy nã số: 17 ngày 14/9/2017 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 3. Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Phạm Quốc D khai nhận hành vi phạm tội trong vụ án “Trộm cắp tài sản” tại cà phê TAB, số 42-44 Nguyễn Hiền, Phường 4, Quận 3 mà Trần Đặng Phi H bị bắt quả tang.

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6700.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung.

- 01 khối kim loại hình chữ nhật, màu trắng, ở hai đầu có khoét mỗi đầu 05 lỗ nhỏ.

- 02 thanh đoản bẻ khóa bằng kim loại, một đầu có hình lục giác, một đầu có hình nhọn, thân đoản có hình lục giác màu sáng, luỡi dẹp, không có rãnh, được mài nhọn đầu và có lưỡi màu đen.

- 02 thanh đoản bẻ khóa bằng kim loại, có một đầu và thân hình lục giác, đầu còn lại dẹp và nhọn, phía trên lưỡi có rãnh.

- 01 sim, seri 8401 - 1607 - 5023 - 7893.

- 01 xe gắn máy biển số 59L1 - 024.68, số máy JF27E0526868, số khung RLHJF1807AY6 07536.

- 01 xe gắn máy biển số 52F1 - 7824, số máy: 1P50FMG310665702, số khung: NE100 10665225.

- 01 phần khung xe gắn máy (không rõ loại), không có số, đã bị cắt phần đầu, đuôi.

- 01 hộp nhựa màu đỏ bên trong có 09 cây sắt, trên đầu mỗi cây có dập số nổi, từ 0 - 8.

- 10 ổ khóa đĩa xe các loại.

- 02 USB hiệu Sony, Apacer.

- 06 chìa khóa xe gắn máy các loại.

- 01 đoản bẻ khóa xe

Về phần dân sự: Các bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số: 395/CT-VKS-P2, ngày 26/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Bị cáo Trần Đặng Phi H và Phan Sỹ K về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Bị cáo Phạm Quốc D về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa,

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Trần Đặng Phi H, Phan Sỹ K và Phạm Quốc D đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá, tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, nêu lên những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Trần Đặng Phi H, Phan Sỹ K và Phạm Quốc D phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52; Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: bị cáo Trần Đặng Phi H từ 09 năm tù đến 10 năm tù. Tổng hợp 02 năm 6 tháng tù của Bản án số: 81/2017/HSST, ngày 08/9/2017 của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phồ Hồ Chí Minh. Buộc bị cáo phải chấp hành tổng hợp hình phạt của hai bản án là từ 11 năm 06 tháng tù đến 12 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: bị cáo Phan Sỹ K từ 07 năm tù đến 08 năm tù.

- Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: bị cáo Phạm Quốc D từ 03 năm tù đến 04 năm tù.

Về phần dân sự:

Buộc bị cáo Trần Đặng Phi H bồi thường cho:

1/ Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Hoàng K 32.000.000 (ba mươi hai triệu) đồng.

2/ Ông Lương Văn L 32.000.000 (ba mươi hai triệu) đồng.

3/ Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ An N 100.000.000 (một trăm triệu) đồng.

4/ Ông Ngô Hùng D 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.

5/ Bà Phạm Thị H 100.000.000 (một trăm triệu) đồng.

Buộc bị cáo Phan Sỹ K bồi thường cho:

1/ Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ Long V 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng.

2/ Ông Võ Văn L 100.000.000 (một trăm triệu) đồng.

Riêng đối với xe SH150i, màu xám-đen, BS: 59D1-904.15 của ông Phạm Đức D do ông Hồ Thạch N là người giữ xe trông coi thu giữ được và Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 3 đã trả lại cho ông D nên ông N không yêu cầu bồi thường.

Về vật chứng:

Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không tranh luận mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã đuợc thấm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đứng về thấm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Trần Đặng Phi H, Phan Sỹ K và Phạm Quốc D khai nhận về hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố. Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh bàng các tài liệu, vật chứng thu giữ và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Xuất phát từ động cơ, mục đích muốn có tiền tiêu xài nên các bị cáo Trần Đặng Phi H, Phan Sỹ K và Phạm Quốc D đã bàn bạc với nhau để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bằng thủ đoạn dàn cảnh giả vờ gọi nhân viên bảo vệ ra nói chuyện nhằm mục đích đánh lạc hướng làm cho nhân viên bảo vệ mất cảnh giác rồi lén lút lấy trộm xe mô tô của các anh Trần Ngọc D, Trần Tuấn K, Đoàn B, Đàm Quang H, Phạm Đức D, Lương Văn L, Lê Thanh H, Hồ Anh N và Phạm Đức D. Như vậy, hành vi của các bị cáo Trần Đặng Phi H, Phan Sỹ K và Phạm Quốc D đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Trong đó, bị cáo Trần Đặng Phi H tham gia 06 vụ trộm cắp tài sản tại Quận 3 và quận Tân Bình chiếm đoạt tài sản có giá trị tổng cộng là: 470.000.000 đồng, hưởng lợi số tiền là 46.700.000 đồng; bị cáo Phan Sỹ K tham gia 02 vụ trộm cắp tài sản tại Quận 3 chiếm đoạt tài sản có giá trị tổng cộng là: 200.000.000 đồng, hưởng lợi 20.000.000 đồng nên thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”. Vì vậy, cần phải áp dụng điểm a khoản 3 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 để xử phạt bị cáo Trần Đặng Phi H và Phan Sỹ K.

Bị cáo Phạm Quốc D tham gia 01 vụ trộm cắp tài sản vào ngày 15/02/2017, tại quán cà phê TAB, số 42-44 Nguyễn Hiền, Phuờng 4, Quận 3, tài sản chiếm đoạt trị giá: 61.500.000 đồng thì bị bắt quả tang nên thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”. Vì vậy, cần phải áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 để xử phạt bị cáo Phạm Quốc Dung.

Hành vi phạm tội của các bị cáo Trần Đặng Phi H, Phan Sỹ K và Phạm Quốc D là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, để giữ gìn kỷ cương pháp luật, để bảo vệ tài sản của mọi người, để củng cố niềm tin của nhân dân thì cần phải xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm khắc, đúng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra mới đạt được mục đích giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Trần Đặng Phi H, Phan Sỹ K và Phạm Quốc D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Trần Đặng Phi H đã nộp lại 30.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại, bị cáo Phan Sỹ K đã nộp lại 67.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại nên bị cáo Hùng và bị cáo Khoa được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Phạm Quốc D phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Đây là vụ án có tổ chức, diễn ra trong một khoảng thời gian dài, có sự phối hợp, phân công nhiệm vụ, cấu kết với nhau một cách chặt chẽ trong việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người bị hại. Vì vậy, cần phải áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Trần Đặng Phi H, Phan Sỹ K và Phạm Quốc D. Ngoài ra, bị cáo Trần Đặng Phi H thực hiện 06 vụ trộm cắp tài sản, bị cáo Phan Sỹ K thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản nên cần áp dụng thêm tình tiết nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo H và bị cáo K.

Ngày 08/9/2017, Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phồ Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo Trần Đặng Phi H 02 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo

Bản án số: 81/2017/HSST. Vì vậy, ngoài hình phạt của bản án này cần áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, tổng hợp hình phạt của Bản án số: 81/2017/HSST, ngày 08/9/2017 để tổng hợp thành hình phạt chung của cả hai bản án.

Ngày 01/12/2017, Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phồ Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo Phan Sỹ K 01 năm 6 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2017 về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số: 120/2017/HSST. Ngày 13/12/2018, bị cáo Phan Sỹ K đã chấp hành xong hình phạt tù. Vì vậy, thời hạn tù của bị cáo K trong bản án này sẽ được tính từ ngày: 13/12/2018.

- Đối với 07 vụ trộm cắp còn lại do bị cáo Phạm Quốc D không thừa nhận nên Cơ quan cảnh sát điều fra tách hành vi của D tiếp tục làm rõ, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Đối với các đối tượng Tuấn Quắn, Bình, Cường Điên có hành vi chở Trần Đặng Phi H, Phan Sỹ K thực hiện hành vi phạm tội; đối với đối tượng Trường Dâm có hành vi mua xe mô tô do Trần Đặng Phi H, Phan Sỹ K, Phạm Quốc D và đồng phạm trộm cắp mà có, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục điều tra xác minh làm rõ xử lý sau.

- Đối với Ngô Chánh T không khai nhận hành vi mua các xe trong vụ án trên, cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.

Về trách nhiệm dân sự:

Vụ 1: Tại phiên tòa, Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ Hoàng K và chủ xe là ông Lê Thanh H đều vắng mặt. Tuy nhiên, Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ Hoàng K đã bồi thường trước cho ông Lê Thanh H 32.000.000 đồng. Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ Hoàng K có yêu cầu bị cáo Trần Đặng Phi H phải bồi thường thiệt hại. Vì vậy, buộc bị cáo H phải bồi thường cho Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ Hoàng K 32.000.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường.

Vụ 2: Ông Lương Văn L chủ xe máy PCX yêu cầu bị cáo Trần Đặng Phi H bồi thường 32.000.000 đồng. Bị cáo H đồng ý bồi thường. Vì vậy, buộc bị cáo H bồi thường cho ông L như ông L đã yêu cầu.

Vụ 3: Tại phiên tòa, ông Lê Huy V là đại diện của Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ An N yêu cầu bồi thường 100.000.000 đồng. Bị cáo Trần Đặng Phi H đồng ý bồi thường. Vì vậy, buộc bị cáo Trần Đặng Phi H bồi thường cho Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ An N như đại diện của công ty này đã yêu cầu.

Vụ 4: Tại phiên tòa, ông Ngô Hùng D yêu cầu bị cáo Trần Đặng Phi H bồi thường 30.000.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường. Vì vậy, buộc bị cáo H phải bồi thường cho ông D như ông D đã yêu cầu.

Vụ 5: Tại phiên tòa, ông Võ Văn B là đại diện của Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ Long V yêu cầu bị cáo Phan Sỹ K bồi thường 70.000.000 đồng. Bị cáo K đồng ý bồi thường. Vì vậy, buộc bị cáo K phải bồi thường cho Công ty TNHH MTV dịch vụ bảo vệ Long V 70.000.000 đồng như đại diện của công ty này đã yêu cầu.

Vụ 6: Tại phiên tòa, ông Võ Văn L cho biết đã trực tiếp bồi thường cho chủ xe là ông Đàm Quang H, đồng thời ông L yêu cầu bị cáo Phan Sỹ K bồi thường cho ông 100.000.000 đồng. Bị cáo K đồng ý bồi thường. Vì vậy, buộc bị cáo K phải bồi thường cho ông L 100.000.000 đồng như ông Lđã yêu cầu.

Vụ 7: Tại phiên tòa, bà Phạm Thị H cho biết đã bồi thường cho ông Trần Hồ Văn H là người chủ sở hữu chiếc xe máy SH150i 100.000.000 đồng. Nay bà H yêu cầu bị cáo Trần Đặng Phi H bồi thường 100.000.000 đồng. Bị cáo H đồng ý bồi thường. Vì vậy, buộc bị cáo H phải bồi thường cho bà H như bà H đã yêu cầu.

Vụ 8: Riêng đối với xe SH150i, màu xám-đen, BS: 59D1-904.15 của ông Phạm Đức D do ông Hồ Thạch N là người giữ xe trông coi. Trong khi bị cáo H và bị cáo D đang thực hiện hành vi trộm cắp thì bị phát hiện bị bắt quả tang, chiếc xe máy đã được thu giữ ngay tại chỗ, Cơ quan CSĐT Công an Quận 3 đã trả lại xe cho ông D. Vì vậy không phải xét đến việc bồi thường.

Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án gồm ông Lê Thanh H, ông Trần Ngọc D, ông Trần Tuấn K, ông Đoàn B, ông Đàm Quang H và ông Hồ Anh N là những chủ xe bị các bị cáo chiếm đoạt tự thỏa thuận với các bị hại trong việc bồi thường tài sản bị mất. Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tách ra thành một vụ kiện dân sự khác khi người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu.

Về vật chứng của vụ án:

Cơ quan điều tra có thu giữ của bị cáo Trần Đặng Phi H:

01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 6700, 01 (một) khối kim loại hình chữ nhật, màu trắng, ở hai đầu có khoét môi đầu 05 (năm) lô nhỏ; 02 (hai) thanh đoản bẻ khóa bằng kim loại, một đầu có hình lục giác, một đầu có hình nhọn, thân đoản có hình lục giác màu sáng, lưỡi dẹp, không có rãnh, được mài nhọn đầu và có lưỡi màu đen; 02 (hai) thanh đoản bẻ khóa bằng kim loại, có một đầu và thân hình lục giác, đầu còn lại dẹp và nhọn, phía trên lưỡi có rãnh; 01 (một) sim, seri 8401 - 1607 - 5023 - 7893; 01 (một) đoản bẻ khóa.

Cơ quan điều tra có thu giữ của bị cáo Phạm Quốc D:

01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu xám; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen.

Cơ quan điều tra có thu giữ của ông Ngô Chánh T:

01 (một) phần khung xe gắn máy (không rõ loại), không có số, đã bị cắt phân đầu, đuôi; 01 (một) hộp nhựa màu đỏ bên trong có 09 cây sắt, trên đầu mỗi cây có dập số nổi, từ 0 - 8; 10 (mười) ổ khóa đĩa xe các loại; 02 (hai) USB hiệu Sony, Apacer không kiểm tra tình trạng hoạt động; 06 (sáu) chìa khóa xe gán máy.

01 (một) xe gắn máy, biển số: 59L1 - 024.68, số máy: JF27E0526868, số khung: RLHJF1807AY6 07536 thu giữ của Ngô Chánh T đã bị đục khung, đục số, không xác định được số khung, số máy nguyên thủy.

01 (một) xe gắn máy biển số 52F1-7824, số máy: 1P50FMG310665702, số khung: NE100 10665225 do bà Lưu Thị Đ là mẹ của ông Ngô Chánh T đứng tên sở hữu. Bà Đ giao chiếc xe trên cho T sử dụng. Tuy nhiên, phần máy của chiếc xe này không đúng với số máy nguyên thủy của xe.

Xét thấy:

- Đối với 04 (bốn) chiếc điện thoại di động các loại thu giữ của bị cáo H và bị cáo D có liên quan đến tội phạm, các bị cáo có sử dụng điện thoại trên để liên lạc trong khi thực hiện tội phạm. Vì vậy, phải tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) khối kim loại hình chữ nhật, màu trắng, ở hai đầu có khoét mỗi đầu năm lỗ nhỏ; 02 (hai) thanh đoản bẻ khóa bằng kim loại, một đầu có hình lục giác, một đầu có hình nhọn, thân đoản có hình lục giác màu sáng, lưỡi dẹp, không có rãnh, được mài nhọn đầu và có lưỡi màu đen; 02 (hai) thanh đoản bẻ khóa bằng kim loại, có một đầu và thân hình lục giác, đầu còn lại dẹp và nhọn, phía trên lưỡi có rãnh; 01 (một) sim, seri 8401 - 1607 - 5023 - 7893; 01 (một) đoản bẻ khóa thu giữ của bị cáo H là vật chứng của vụ án, nay không còn giá trị sử dụng phải tich thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) phần khung xe gắn máy (không rõ loại), không có số, đã bị cắt phần đầu, đuôi bất hợp pháp; 01 (một) hộp nhựa màu đỏ bên trong có 09 cây sắt, trên đầu mỗi cây có dập số nổi, từ 0 - 8 thu giữ của ông T liên quan đến việc đục lại số trên khung xe máy trái phép phải tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) xe gắn máy, biển số: 59L1 - 024.68, số máy: JF27E0526868, số khung: RLHJF1807AY6 07536 thu giữ của ông Ngô Chánh T đã bị đục khung, đục số, không xác định được số khung, số máy nguyên thủy nên phải tịch thu sung ngân sách Nhà nước

- Đối với 01 (một) xe gắn máy biển số 52F1 - 7824, số máy: 1P50FMG310665702, số khung: WE100 10665225 thu giữ của bà Lưu Thị Đ là mẹ của ông T đứng tên sở hữu. Bà Đ giao chiếc xe trên cho ông T sử dụng. Tuy nhiên, phần máy của chiếc xe này không đúng với số máy nguyên thủy của xe. Do đó, Hội đồng xét xử trả lại cho bà Đ phần khung xe, riêng đối với phần máy của xe thì tách ra tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52; Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015, đuợc sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Đặng Phi H (tên khác: Ốc) 09 (chín) năm tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp với hình phạt 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù mà Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phồ Hồ Chí Minh đã xử phat bị cáo, tại Bản án số: 81/2017/HSST ngày 08/9/2017. Buộc bị cáo Trần Đặng Phi H phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 11 (mười một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/02/2017.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm a, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phan Sỹ K 07 (bảy) năm tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày: 13/12/2018.

- Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Quốc D (tên khác: Dũng Khai) 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày: 21/12/2017.

- Áp dụng Điều 47; Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Buộc bị cáo Trần Đặng Phi H bồi thường cho:

1/ Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ Hoàng K 32.000.000 (ba mươi hai triệu) đồng.

2/ Ông Lương Văn L 32.000.000 (ba mươi hai triệu) đồng.

3/ Công ty TNHH Dịch vụ bảo vệ An N 100.000.000 (một trăm triệu) đồng.

4/ Ông Ngô Hùng D 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.

5/ Bà Phạm Thị 100.000.000 (một trăm triệu) đồng.

- Buộc bị cáo Phan Sỹ K bồi thường cho:

1/ Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ Long V 70.000.000 (bảy mươi triệu) đồng.

2/ Ông Võ Văn L 100.000.000 (một trăm triệu) đồng

Bị cáo Trần Đặng Phi H đã nộp lại 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để bồi thường thiệt hại, bị cáo Phan Sỹ K đã nộp lại 67.000.000 (sáu mươi bảy triệu) đồng để bồi thường thiệt hại. Vì vậy, cần tiếp tục tạm giữ số tiền này để đảm bảo thi hành án phần dân sự.

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

+ 01 (một) khối kim loại hình chữ nhật, màu trắng, ở hai đầu có khoét mỗi đầu 05 (năm) lỗ nhỏ; 02 (hai) thanh đoản bẻ khóa bằng kim loại, một đầu có hình lục giác, một đầu có hình nhọn, thân đoản có hình lục giác màu sáng, lưỡi dẹp, không có rãnh, được mài nhọn đầu và có lưỡi màu đen; 02 (hai) thanh đoản bẻ khóa bằng kim loại, một đầu có hình lục giác, đầu còn lại dẹp và nhọn, phía trên lưỡi có rãnh; 01 (một) sim, seri 8401 - 1607 - 5023 - 7893; 01 (một) đoản bẻ khóa của bị cáo Trần Đặng Phi H.

+ 01 (một) phần khung xe gắn máy (không rõ loại), không có số, đã bị cắt phần đầu, đuôi; 01 (một) hộp nhựa màu đỏ bên trong có 09 (chín) cây sắt, trên đầu mỗi cây có dập số nổi, từ 0 - 8 của ông Ngô Chánh T.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6, màu vàng, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động và máy bên trong, 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 6700, số Imei: 355364046273729 đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động và máy bên trong của bị cáo Trần Đặng Phi H.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu xám, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động và máy bên trong, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động và máy bên trong của bị cáo Phạm Quốc D.

+ 01 (một) xe hai bánh gắn máy màu đồng, nhãn hiệu: Honda, loại xe: 02 bánh, số loại: AirBlade, biển số: 59L1 - 024.68, số máy: JF27E0526868 (ghi theo số cà), số khung: RLHJF1807AY6 07536 (sét mờ, không đọc được) của ông Ngô Chánh T.

Trả lại cho:

+ Ông Ngô Chánh T ổ khóa đĩa xe các loại; 02 (hai) USB hiệu Sony, Apacer không kiểm tra tình trạng hoạt động; 06 (sáu) chìa khóa xe gắn máy các loại.

+ Bà Lưu Thị Đ 01 (một) xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu: Honda, loại xe: 02 bánh, số loại: Wave s, biển số: 52F1 - 7824; số khung: WE100 10665225 (ghi theo số cà). Riêng đối với phần máy xe có số máy: 1P50FMG310665702 thì tách ra tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số: 104/19, ngày 22 tháng 11 năm 2018 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh; Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: AA/2018/0013001 ngày 12/4/2019; Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: AA/2017/0045555 ngày 01/11/2018).

- Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Trần Đặng Phi H phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 13.200.000 (mười ba triệu hai trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Phan Sỹ K phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 5.150.000 (năm triệu một trăm năm mươi ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Phạm Quốc D phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền phải thi hành, người phải thi hành án còn phải chịu thêm tiền lãi quá hạn là 10%/năm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo, người bị hại có mặt tại tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 215/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:215/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về