Bản án 215/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về tranh chấp ly hôn và chia tài sản khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 215/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 27 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 377/2018/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2018 về “tranh chấp ly hôn và chia tài sản khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 331/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Kim C, sinh năm 1987 (có mặt)

Nơi cư trú: Ấp TLA, xã TAKN, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Từ Văn B, sinh năm 1987 (có mặt)

Nơi cư trú: Ấp NB, xã TP, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trần Thị N, sinh năm 1954 (có mặt)

Nơi cư trú: Ấp NB, xã TP, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau.

2. Chị Phạm Thúy N, sinh năm 1983 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp CL, xã TP, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Võ Kim C trình bày:

Về hôn nhân: Chị Võ Kim C và anh Từ Văn B kết hôn ngày 26/3/2018, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TAKN, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Anh chị đã ly thân đến nay trên hai tháng. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, cuộc sống không hòa hợp, bất đồng quan điểm, tính tình anh B nóng nảy, thường xuyên xúc phạm chị và gia đình chị, vợ chồng còn xảy ra mâu thuẫn xung quanh vấn đề kinh tế, anh B nghi ngờ chị làm gửi tiền về cho cha mẹ ruột, trước đó khi xảy ra mâu thuẫn gia đình hai bên đã hòa giải và anh B hứa hẹn không xúc phạm chị nhưng anh B không thay đổi. Chị C yêu cầu được ly hôn với anh B.

Về con chung: Chị C đang mang thai trên sáu tháng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh chị được bà Trần Thị N tặng cho trong ngày cưới 10 chỉ vàng 24k, sau đó bán 02 chỉ vàng 24k, còn 08 chỉ vàng 24k. Trước khi anh chị đi làm xa, anh B đã lấy 08 chỉ vàng 24k đưa bà N giữ. Khi ly hôn, chị C yêu cầu bà N giao lại số vàng để chị và anh B phân chia mỗi người hưởng ½. Chị C xác định có biết việc anh B nuôi tôm công nghiệp nhưng do anh B nuôi chung với cha mẹ chồng, anh B cho rằng anh mượn chị N 10 chỉ vàng 24k để nuôi tôm công nghiệp chị hoàn toàn không biết nên vẫn giữ y yêu cầu phân chia số vàng 08 chỉ vàng 24k.

Về nợ: Không có.

Anh Từ Văn B trình bày:

Về hôn nhân: Anh B chung sống với chị C năm 01/12/2017al, sau khi tổ chức đám cưới thì vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã TAKN, hôn nhân tự nguyện, ly thân hơn 1 tháng nay. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh vợ có yêu cầu anh gửi tiền về cho cha vợ nên lúc nóng giận có chửi mắng chị C, tuy nhiên do hai người em vợ anh có gặp tôi chửi mắng, xúc phạm anh nên khi nóng tính anh có chửi mắng lại. Anh B đồng ý ly hôn với chị C.

Về con chung: Anh B thống nhất lời trình bày của chị C, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh chị được bà N cho 10 chỉ vàng 24k trong ngày kết hôn, khi cuộc sống vợ chồng khó khăn có bán 02 chỉ vàng 24k, còn lại 08 chỉ vàng 24k anh đưa bà N giữ. Sau đám cho đồ, bà N có cho một ao tôm công nghiệp để nuôi, khi này không có vốn nên anh có đi hỏi 10 chỉ vàng 24k của chị Phạm Thúy N để sử dụng vào việc thả tôm giống. Thời điểm mượn vàng, chị C đang đi làm ở Bình Dương, anh chị chưa về chung sống với nhau. Đến khi chị N yêu cầu lấy số vàng đã cho mượn, anh đã lấy số vàng bà N đang giữ trả cho chị N. Anh B không đồng ý phân chia 08 chỉ vàng 24k theo yêu cầu khởi kiện của chị C.

Về nợ: Anh xác định hiện nay còn nợ chị N 02 chỉ vàng 24k.

Bà Trần Thị N trình bày: Bà thống nhất lời trình bày của anh B, trước đây bà có giữ 08 chỉ vàng 24k do anh B đưa nhưng sau đó anh B đã lấy trả nợ cho chị N. Nên bà không đồng ý trả theo yêu cầu khởi kiện của chị C.

Chị Phạm Thúy N trình bày: Chị N có cho anh B mượn 10 chỉ vàng 24k vào ngày 24/10/2017al, anh B trực tiếp mượn của chị, mục đích mượn về thả con giống nuôi tôm công nghiệp. Thời điểm mượn, chị C chưa về sống chung còn có đăng ký kết hôn không thì không biết. Khi chị cần tiền thả con giống nên bà N đã đem vàng trả lại cho chị, hiện nay anh B còn nợ chị N 02 chỉ vàng 24k, chị N yêu cầu tự thỏa thuận với anh B, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị N là phù hợp.

[2] Về hôn nhân: Chị C và anh B chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TAKN, hôn nhân tự nguyện theo đúng quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được pháp luật công nhận là vợ chồng. Trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn do tính tình anh B nóng nảy, thường xúc phạm chị và gia đình chị, vợ chồng còn mâu thuẫn xung quanh vấn đề kinh tế, anh B nghi ngờ chị làm gửi tiền về cho cha mẹ chị, trước đây mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải hàn gắn và anh B có hứa hẹn không xúc phạm chị nhưng anh B không thay đổi. Xét thấy, giữa anh chị không còn tin tưởng, quan tâm lẫn nhau, không còn tình cảm với nhau và thống nhất ly hôn. Xét mâu thuẫn của anh chị đã đến mức trầm trọng , đơi sông chung không thê kéo dài , mục đích hôn nhân không đạt được . Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình cho chi C đươc ly hôn vơi anh B.

[3] Về con chung: Chị C và anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp.

[4] Về tài sản chung: Chị C và anh B thống nhất trong ngày cưới bà N cho anh chị 10 chỉ vàng 24k, trong quá trình chung sống anh chị đã bán 02 chỉ vàng 24k, còn lại 08 chỉ vàng 24k. Do đó, có đủ cơ sở xác định 08 chỉ vàng 24k là tài sản chung của anh chị. Chị C yêu cầu yêu cầu được hưởng 04 chỉ vàng 24k, anh B và bà N không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của chị C vì cho rằng đã lấy số vàng trên trả nợ cho chị N. Xét thấy, chị C, anh B, bà N và chị N đều thống nhất anh B mượn 10 chỉ vàng 24k của chị N trước khi anh chị chung sống với nhau, anh B là người trực tiếp mượn vàng của chị N, từ khi anh B mượn vàng đến khi anh chị ly thân chị C hoàn toàn không biết và không thừa nhận khoản nợ trên là nợ chung của anh chị. Nên có căn cứ xác định khoản nợ chị N 10 chỉ vàng 24k là nợ riêng của anh B, việc anh B lấy 08 chỉ vàng 24k để trả nợ cho chị N không được sự đồng ý của chị C. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện phân chia 08 chỉ vàng 24k của chị C, chị C và anh B mỗi người được hưởng 04 chỉ vàng 24k. Anh B đã lấy 08 chỉ vàng 24k trả nợ cho chị N nên anh có nghĩa vụ giao cho chị C 04 chỉ vàng 24k.

[5] Về nợ: Chị C xác định không có, anh B xác định còn nợ chị N 02 chỉ vàng 24k. Tuy nhiên do chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp. Trường hợp sau này các đương sự phát sinh tranh chấp sẽ khởi kiện thành vụ án dân sự khác theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

[6] Về án phí:

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị C phải chịu theo quy định của pháp luật.

Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Chị C và anh B phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 8, Điều 9, Điều 51, Điều 56 và Điều 59 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Kim C.

1. Về hôn nhân: Cho chị Võ Kim C được ly hôn với anh Từ Văn B.

2. Về tài sản chung: Chị Võ Kim C và anh Từ Văn B mỗi người được hưởng 04 chỉ vàng 24k. Anh B có trách nhiệm giao cho chị C 04 chỉ vàng 24k.

3. Về án phí:

- Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Võ Kim C phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng đươc trư vao sô tiên tam ưng an phi hôn nhân va gia đin h sơ thâm đa nôp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0010197 ngày 30 tháng 7 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi, chị C đa nôp đu an phi hôn nhân va gia đinh sơ thâm.

- Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Võ Kim C phải chịu 686.000đ (sáu trăm tám mươi sáu nghìn đồng), nhưng đươc trư vao sô tiên tam ưng an phi dân sự sơ thâm đa nôp 350.000đ (ba trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0010201 ngày 30 tháng 7 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi, chị C còn phải nộp thêm số tiền 336.000đ (ba trăm ba mươi sáu nghìn đồng). Anh Từ Văn B phải chịu 686.000đ (sáu trăm tám mươi sáu nghìn đồng), chưa nộp.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị Võ Kim C, anh Từ Văn B và bà Trần Thị N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Phạm Thúy N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 215/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về tranh chấp ly hôn và chia tài sản khi ly hôn

Số hiệu:215/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về