Bản án 214/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 214/2020/HS-ST NGÀY 21/12/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 216/2020/TLST- HS, ngày 08 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 201/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Hà Đình Q, sinh năm 1994 tại Thanh Hóa; ĐKHKTT: thôn Xuân Minh 2, xã X, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn) 8/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Xuân T, sinh năm 1972 và bà Hà Thị T, sinh năm 1972; Vợ con: không; Tiền án, tiền sự: không có; Bị cáo bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 17/8/2020; Bị cáo đang tạm giam tại trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội (có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Cháu Trần Phương D, sinh năm: 2003; Trú tại: tập thể công ty xây dựng số 4, thôn X, xã Y, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

- Người đại diện theo pháp luật của bị hại: Bà Ngô Thị V, sinh năm: 1972; trú tại: tập thể công ty xây dựng số 4, thôn X, xã Y, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

(Cháu D và bà V đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Anh T, sinh năm: 1982; trú tại: Chùa D, Đ, T, Bắc Ninh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 8 giờ 00 phút, ngày 12/8/2020, Hà Đình Q mang theo một con dao nhặt được ở khu vực bãi sắt gần nơi ở tại C, T, Bắc Ninh sang địa phận Y, Gia Lâm, Hà Nội với mục đích trộm, cướp tài sản. Khoảng 11 giờ 30 tại khu vực nghĩa trang thôn Đ, xã Y, Gia Lâm, Hà Nội, Hà Đình Q nhìn thấy cháu Trần Phương D đang điều khiển xe máy điện màu đỏ đen đi ngược chiều nên đã chặn xe, rút dao trong túi quần ra quát, bắt Cháu Dphải đưa xe cho mình. Sau khi lấy được xe máy điện, Q tháo biển kiểm soát của xe và vứt cùng con dao ở khu vực T, Bắc Ninh. Sau đó Q bán chiếc xe máy điện cho anh Nguyễn Anh T là chủ cửa hàng mua bán xe máy điện ở Đ, T, Bắc Ninh với giá 3.000.000 đồng và Q đã ăn tiêu hết. Ngày 13/8/2020 Q về quê tại X, T, Thanh Hóa thì bị cơ quan công an mời xuống làm việc.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ 01 áo cộc tay màu nâu đỏ, phía trước có in chữ Fila Roma new century, không cổ đã qua sử dụng; 01 quần sooc màu đen đã qua sử dụng, 01 chiếc xe máy điện màu đỏ đen, không có biển kiểm soát, có số máy: 00W180400200, số khung: EMUMIJSM00319, đầu xe có chữ: DK STRONG, cũ đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng xe.

Tại Kết luận định giá tài sản số 181/KL – HĐĐG, ngày 09 tháng 9 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Gia Lâm kết luận: 01 chiếc xe máy điện màu đỏ đen, không có biển kiểm soát, có số máy: 00W180400200, số khung: EMUMIJSM00319, đầu xe có chữ: DK STRONG xe đã qua sử dụng có giá trị 7.500.000 đồng.

Về dân sự: bị hại cháu Trần Phương D đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì về bồi thường dân sự. Anh Nguyễn Anh T, anh T không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 3.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 215/CT-VKSGL, ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Hà Đình Q về tội Cướp tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 168 – BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà: bị cáo Hà Đình Q đã thành khẩn khai nhận về hành vi mà bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại cơ quan điều tra, bị cáo đã thừa nhận hành vi cướp chiếc xe máy điện màu đỏ đen của cháu Trần Phương D.

Bị hại là cháu Trần Phương D và người đại diện theo pháp luật của bị hại là bà Ngô Thị V có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa và không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự cũng như các yêu cầu khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm trình bày luận tội, giữ nguyên nội dung Bản cáo trạng đã truy tố bị cáo, sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, đánh giá vai trò của bị cáo trong vụ án, nhân thân cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Hà Đình Q phạm tội Cướp tài sản.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Hà Đình Q từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 17/8/2020.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định.

Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Anh T không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 3.000.000 đồng nên không xem xét giải quyết.

Về vật chứng: 01 áo cộc tay màu nâu đỏ và 01 quần sooc màu đen cũ đã thu giữ của bị cáo, bị cáo không yêu cầu trả lại do không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy. Buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 3.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.

Lời nói sau cùng bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp [2]. Về tội danh và tình tiết định khung hình phạt: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan, người làm chứng, vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:

Khong 11 giờ 30 ngày 12/8/2020 tại khu vực thôn Đ, xã Y, Gia Lâm, Hà Nội, Hà Đình Q đã có hành vi sử dụng dao đe dọa cháu Trần Phương D rồi chiếm đoạt 01 xe máy điện màu đỏ đen có giá trị 7.500.000 đồng. Hành vi bị cáo Q đã cấu thành tội “Cướp tài sản” với tình tiết định khung là sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Hà Đình Q là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3]. Về hình phạt và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất, mức độ của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng và quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi và hậu quả nguy hiểm hành vi nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tài sản đã thu hồi trả cho bị hại. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức có phần hạn chế nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, lấy đó làm căn cứ giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đề nghị áp dụng đối với bị cáo tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về bồi thường dân sự: bị hại là cháu Trần Phương D đã nhận lại tài sản và không còn yêu cầu gì về bồi thường dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Anh T không yêu cầu bị cáo trả số tiền 3.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 áo cộc tay màu nâu đỏ và 01 quần sooc màu đen đã qua sử dụng, đây là các vật dụng cá nhân của bị cáo nhưng bị cáo không yêu cầu trả lại do không còn giá trị sử dụng.

Buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 3.000.000 đồng là tiền thu lời bất chính để sung công quỹ Nhà nước.

[7]. Đối với anh Nguyễn Anh T: khi mua xe máy điện, anh T không biết là tài sản do Q phạm tội mà có nên cơ quan Công an không xem xét trách nhiệm hình sự đối với anh Tuấn là đúng quy định của pháp luật.

[8]. Về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo: bị cáo Hà Đình Q có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm d khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Điều 331, Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án 

Tuyên bố bị cáo Hà Đình Q phạm tội Cướp tài sản 

Xử phạt: Hà Đình Q 07 (bẩy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 17/8/2020.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng đối với bị cáo

Về xử lý vật chứng: Trả lại bị cáo:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 áo cộc tay màu nâu đỏ, phía trước có in chữ Fila Roma new century, không cổ đã qua sử dụng; 01 quần sooc màu đen đã qua sử dụng. Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Lâm theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 17/12/2020 Bị cáo Hà Đình Q phải truy nộp số tiền 3.000.000 (ba triệu) đồng sung công quỹ Nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo Hà Đình Q có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại là cháu Trần Phương D và người đại diện theo pháp luật của bị hại chị Ngô Thị V vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Anh T vắng mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết đinh được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 214/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội cướp tài sản

Số hiệu:214/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về