Bản án 214/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 214/2019/HS-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 242/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 286/2019/QĐXXST-HS ngày 29/8/2019 đối với các bị cáo:

1. PHẠM HỒNG P– sinh năm: 1981 tại Hà Nội; HKTT và chỗ ở: Thôn Đ, ĐT, GL, Hà Nội; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Tự do; con ông Phạm Hồng Nh (Chết) và bà Đặng Thị Á; TATS: Theo danh chỉ bản số 379 ngày 22/5/2019 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì các bị cáo có 02 tiền án:

- Bản án số 83/HSST ngày 13/5/2005, TAND quận Long Biên, Hà Nội xử 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nộp án phí ngày 01/11/2005. Chấp hành án xong ngày 14/10/2006. Bản án này đã được xóa án tích.

- Bản án số 98/HSST ngày 13/5/2014, TAND quận Long Biên, Hà Nội xử 32 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nộp án phí ngày 13/5/2014. Chấp hành án xong ngày 29/4/2016. Bản án này đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt ngày 16/5/2019. (Có mặt).

2. NGUYỄN VĂN H– sinh năm: 1969 tại Hà Nội; HKTT và chỗ ở: Thôn Đ, ĐT, GL, Hà Nội; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Tự do; con ông Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị V; Vợ Nguyễn Thị Vân A; Có 02 con: Lớn Sn 1994, nhỏ SN 2017; TATS: Theo danh chỉ bản số 382 ngày 22/5/2019 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì các bị cáo có 02 tiền án, 02 tiền sự:

Tiền sự:

- Tháng 5/1989, Công an huyện GL, Hà Nội xử phạt cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản.

- Tháng 02/1991, Công an thị trấn T, GL, Hà Nội xử phạt cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản.

Tiền án:

- Bản án số 79/HSST ngày 26/9/1989, TAND huyện GL, Hà Nội xử 12 tháng tù cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản. Bản án này đương nhiên được xóa án tích.

- Bản án số 365/HSST ngày 13/6/2001, TAND thành phố Hà Nội xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; phạt tiền 5.000.000đ được trừ 4.500.000đ đã thu giữ của H, còn pH nộp tiếp 500.000đ. Chấp hành án phạt tù xong ngày 28/4/2005. Đối với khoản tiền phạt còn pH nộp 500.000đ, kết quả xác minh thi hành án tại Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, không có hồ sơ thi hành án theo quyết định của Bản án trên. Theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo, bản án này đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt ngày 17/5/2019. (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Vân A-SN: 1979

HKTT: Thôn Đ, ĐT, GL, Hà Nội (Có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20h00 ngày 16/05/2019, Công an phường TB phối hợp với Tổ công tác Y1-KH 141 Công an thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại ngã tư đường C, TB thuộc Tổ 6 phường TB, Long Biên, Hà Nội đã phát hiện Nguyễn Văn H điều khiển xe máy Honda Vision BKS 29H1-688.70 chở sau là Phạm Hồng P có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra hành chính.

Quá trình kiểm tra người Phạm Hồng P phát hiện P dùng tay phải móc trong túi quần phía trước bên phải P đang mặc 01 gói giấy màu xanh có họa tiết và thả xuống đất. Tổ công tác yêu cầu P nhặt gói giấy lên, kiểm tra bên trong có túi ni lông chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, Phạm Hồng P khai nhận gói giấy này chứa chất bột màu trắng là Heroin do H đưa cho P cầm hộ từ đê N về.

Kiểm tra trên người Nguyễn Văn H phát hiện trong túi quần phía trước bên pH H đang mặc có 01 vỏ túi nilong có dính chất bột màu trắng.

Ngoài ra, cơ quan điều tra còn thu giữ của P: 01 điện thoại Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng, của H: 01 điện thoại OPPO màu trắng vàng đã qua sử dụng; 01 điện thoại MASSTEL A123 đã qua sử dụng; số tiền 5.600.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số 3199 ngày 24/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilong (thu giữ của Phạm Hồng P) là ma túy loại Heroine, khối lượng 18,557 gam.

- 01 túi nilong kích thước (6x10) cm (thu giữ của Nguyễn Văn H) có dính ma túy loại Heroine.

Cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp chỗ ở đối với Phạm Hồng P tại Đội 6, thôn Đ, xã ĐT, GL, Hà Nội không phát hiện thu giữ vật chứng liên quan đến ma túy. Khám xét chỗ ở đối với Nguyễn Văn H tại thôn Đ, ĐT, GL, Hà Nội phát hiện, thu giữ: 01 tẩu hút tự tạo có gắn coóng thủy tinh, bên trong coóng thủy tinh chứa tinh thể màu trắng được để trong tủ bàn máy tính trên tầng 2; 03 vỏ túi nilong có dính tinh thể màu trắng trong ngăn kéo của bàn máy vi tính đặt trên tầng 2.

Tại Bản kết luận giám định số 3200 ngày 24/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 coóng thủy tinh thu giữ của Nguyễn Văn H là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,541 gam.

- 03 vỏ túi nilong đều có dính ma túy loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H khai: Khoảng 18h40 phút, khi H đang ở nhà thì P đến chơi, sau đó H rủ P sang Hà Nội chơi. H điều khiển xe máy BKS: 29H1-688.70 chở P đi sang đê N ngồi uống nước. Khoảng 20 phút sau thì đi về. Khi H chở P đến ngã tư TB, C thì bị cơ quan công an kiểm tra, phát hiện ma túy trên người P. Bản thân H không biết việc P cầm theo ma túy, đến khi cơ quan công an kiểm tra phát hiện thì H mới biết. Còn 01 vỏ túi nilong có dính ma túy thu giữ trên người H là vỏ túi nilong H mang từ nhà đi vì ngày hôm trước H có mua ma túy Heroine cùng P sử dụng hết, còn lại vỏ túi nilong H vẫn để trong túi quần chưa bỏ đi. Số tinh thể trong cóong thủy tinh thu giữ được tại chỗ ở của H là ma túy đá H mua vào ngày 16/5/2019 của một người đàn ông không quen biết ở khu vực đê BT, GL, Hà Nội được 03 túi nilong đá với giá 300.000 đồng. Sau đó, H mang 03 túi nilong ma túy đá về nhà và lấy một phần ma túy đá sử dụng cho bản thân, số ma túy còn lại H đổ hết vào cóong thủy tinh rồi để trong tủ bàn máy vi tính mục đích để khi nào thèm thì sử dụng cho bản thân. Còn 03 vỏ túi nilong H để trong ngăn kéo của bàn máy vi tính là 03 túi đựng ma túy trước đó.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Hồng P khai nhận: Khoảng 18h30 phút ngày 16/05/2019, P đi sang nhà H để chơi vì H và P đều là đối tượng nghiện ma túy và đã sử dụng ma túy với nhau vài lần. H rủ P đi sang Hà Nội chơi. Sau đó, H điều khiển xe máy BKS: 29H1-688.70 chở P đi sang đê N. Khi đến một quán nước ở ven đê, H và P ngồi uống nước. H bảo P ngồi uống nước đợi một lát còn H sử dụng xe máy đi đâu P không biết. Một lúc sau H quay lại chỗ P và bảo P đi về. Trên đường đi về, H đưa cho P cầm 01 gói giấy và bảo P ngồi sau cầm. Vì cùng là đối tượng nghiện, đã nhiều lần sử dụng ma túy với nhau nên P hiểu gói giấy H đưa cho P cầm là ma túy. P để gói ma túy vào túi quần phía trước bên phải P đang mặc. Khi H và P đi về đến ngã tư TB, C thì bị cơ quan công an kiểm tra. P đã dùng tay phải móc gói giấy trong túi quần ra thả xuống đất thì bị tổ công tác phát hiện, thu giữ gói ma túy trên.

Việc P khai H đưa số ma túy trên cho P chỉ có H và P biết, không có ai khác biết việc này, cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất nhưng H vẫn giữ nguyên lời khai nên không đủ căn cứ xác định H đồng phạm với P về hành vi tàng trữ trái phép 18,557 gam ma túy Heroine.

Quá trính khám xét chỗ ở thu giữ ma túy đối với Nguyễn Văn H có chị Nguyễn Thị Vân A là người chứng kiến. Vân A là bạn gái chung sống như vợ chồng với H khoảng 04 năm nay tại Thôn Đ, ĐT, GL và đã có 01 người con chung. Tại cơ quan điều tra, Vân A khai căn phòng trên tầng hai mà cơ quan điều tra thu giữ được 01 bộ tẩu hút tự tạo, bên trong coóng thủy tinh chứa 0,541 gam ma túy đá và 03 vỏ túi nilong dính ma túy đá là phòng của Nguyễn Văn H sử dụng, chị Vân A không sử dụng và không biết việc H cất giấu ma túy và các dụng cụ sử dụng ma túy. Lời khai của Vân A phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn H. Do đó không xử lý đối với Nguyễn Thị Vân A.

Đối với người đàn ông bán ma túy đá cho H ở khu vực đê BT, GL, Hà Nội, do H khai không biết tên tuổi địa chỉ của người đàn ông này nên cơ quan điều tra chưa có điều kiện làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Bản cáo trạng số: 255/CT-VKS ngày 27-8-2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Phạm Hồng P, Nguyễn Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo P theo điểm g khoản 2 Điều 249, bị cáo H theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của các bị cáo Phạm Hồng P, Nguyễn Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của bị cáo P vi phạm vào điểm g khoản 2 Điều 249, hành vi của bị cáo H vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 đối với bị cáo P.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 đối với bị cáo H.

Về hình phạt:

- Đề nghị xử phạt các bị cáo P mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

- Đề nghị xử phạt các bị cáo H mức án từ 32 tháng đến 36 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của BLHS 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 18,557 gam ma túy Heroine và 0,541 gam Methamphetamine.

- Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 bộ tẩu hút tự tạo, 03 vỏ túi Nilong có dính Methamphetamine.

- Đề nghị cho thi hành trả lại bị cáo P 01 điện thoại Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng; trả lại bị cáo H 01 điện thoại OPPO màu trắng vàng đã qua sử dụng, 01 điện thoại MASSTEL A123 đã qua sử dụng và số tiền 5.600.000 đồng nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

Đối với chiếc xe máy Honda Vision BKS: BKS 29H1-688.70, SK: 506011, SM: 0391779 thu giữ của Nguyễn Văn H, đăng ký xe tên Nguyễn Duy H, địa chỉ: 243 Tổ 9 Hoàng Văn Thụ, Hoàng Mai, Hà Nội. Chiếc xe máy trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy trên là tài sản của chị Nguyễn Thị Vân A (là bạn gái của Nguyễn Văn H). Chị Vân A mua lại của anh Nguyễn Duy H vào cuối năm 2017 để sử dụng làm phương tiện đi lại. Khoảng 19h00 ngày 16/5/2019, Nguyễn Văn H hỏi mượn xe máy của chị Vân A bảo đi có việc một lát, không nói đi mua ma túy nên chị Vân A đồng ý và giao xe cho H mượn. Ngày 12/8/2019, cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy trên cho chị Vân A. Sau khi nhận lại tài sản, chị Vân A không có yêu cầu đề nghị gì.

Nói lời sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật-tài liệu, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 20h00 ngày 16/5/2019, tại ngã tư C, TB thuộc Tổ 6 phường TB, Long Biên, Hà Nội, bị cáo Phạm Hồng P có hành vi tàng trữ trái phép 18,557 gam ma túy Heroine, mục đích sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị công an phường TB phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Hồi 11h00 ngày 17/5/2019, tại Thôn Đ, ĐT, GL, Hà Nội, bị cáo Nguyễn Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 0,541 gam ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Cơ quan CSĐT – Công an quận Long Biên phát hiện thu giữ.

[3] Hành vi của các bị cáo Phạm Hồng P, Nguyễn Văn H đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 và điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo đã cố ý xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy được Bộ luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần pH nghiêm trị đối với các bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

[4] Về tình tiết tăng nặng TNHS:

Nhân thân của bị cáo P có 02 tiền án: Bản án số 83/HSST ngày 13/5/2005, TAND quận Long Biên, Hà Nội xử 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bản án số 98/HSST ngày 13/5/2014, TAND quận Long Biên, Hà Nội xử 32 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Theo luật định các tiền án trên của bị cáo đã được xóa, bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS nhưng vẫn được coi là có nhân thân xấu.

Nhân thân của bị cáo H có 02 tiền sự: Tiền sự: Tháng 5/1989, Công an huyện GL, Hà Nội xử phạt cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản.Tháng 02/1991, Công an thị trấn T, GL, Hà Nội xử phạt cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản. 02 Tiền án: Bản án số 79/HSST ngày 26/9/1989, TAND huyện GL, Hà Nội xử 12 tháng tù cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản. Bản án số 365/HSST ngày 13/6/2001, TAND thành phố Hà Nội xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; phạt tiền 5.000.000đ được trừ 4.500.000đ đã thu giữ của H, còn pH nộp tiếp 500.000đ. Chấp hành án phạt tù xong ngày 28/4/2005. Đối với khoản tiền phạt còn pH nộp 500.000đ, kết quả xác minh thi hành án tại Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, không có hồ sơ thi hành án theo quyết định của Bản án trên. Theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo, bản án này đã được xóa án tích. Theo luật định các tiền án trên của bị cáo đã được xóa, bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS nhưng vẫn được coi là có nhân thân xấu.

Trong khi Đảng và Nhà nước ta đang kiên quyết đấu tranh để loại trừ tệ nạn ma túy, mại dâm ra khỏi đời sống xã hội thì hành vi phạm tội của các bị cáo xét về tính chất, mức độ và nhân thân các bị cáo xấu thấy cần pH xử phạt các bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Xét các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[7] - Tịch thu tiêu hủy 18,557 gam ma túy Heroine và 0,541 gam Methamphetamine là vật Nhà nước cấm lưu hành.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ tẩu hút tự tạo, 03 vỏ túi Nilong có dính Methamphetamine là tang vật vụ án.

- Cho thi hành trả lại bị cáo P 01 điện thoại Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng; trả lại bị cáo H 01 điện thoại OPPO màu trắng vàng đã qua sử dụng, 01 điện thoại MASSTEL A123 đã qua sử dụng và số tiền 5.600.000 đồng do không liên quan đến tội phạm nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

Đại diện VKSND quận Long Biên đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

- Về vấn đề khác:

[8] Đối với người đàn ông bán ma túy đá cho H ở khu vực đê BT, GL, Hà Nội, do H khai không biết tên tuổi địa chỉ của người đàn ông này nên cơ quan điều tra chưa có điều kiện làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là có căn cứ.

Đối với chiếc xe máy Honda Vision BKS: BKS 29H1-688.70, SK: 506011, SM: 0391779. Ngày 12/8/2019, cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy trên cho chị Vân A. Sau khi nhận lại tài sản, chị Vân A không có yêu cầu đề nghị gì nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[9] Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[10] Các bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Hồng P, Nguyễn Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015:

Xử phạt: các bị cáo Phạm Hồng P 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2019.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015:

Xử phạt: các bị cáo Nguyễn Văn H 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/5/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 18,557 gam ma túy Heroine và 0,541 gam Methamphetamine.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ tẩu hút tự tạo, 03 vỏ túi Nilong có dính Methamphetamine.

(Hiện đang lưu giữ tại Kho tang vật Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập vật chứng ngày 06/8/2019).

- Cho thi hành trả lại bị cáo P 01 điện thoại Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng; trả lại bị cáo H 01 điện thoại OPPO màu trắng vàng đã qua sử dụng, 01 điện thoại MASSTEL A123 đã qua sử dụng và số tiền 5.600.000 đồng (Năm triệu sáu trăm nghìn đồng) nhưng cho tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

(Tang vật trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Long Biên theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/8/2019 và giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 28/8/2019) 

3. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Các bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 214/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:214/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về