TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 214/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 24 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 432/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp “ly hôn, về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 324/2019/QĐXX-ST ngày 25 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1993; địa chỉ: ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang; địa chỉ liên hệ: số 50D/19, khu phố B, phường C, thị xã T, tỉnh Bình Dương (Có mặt).
2. Bị đơn: Anh Lê Hữu Ng, sinh năm 1990; địa chỉ: ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai và các biên bản hòa giải nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày: Chị và anh Lê Hữu Ng tự tìm hiểu, tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chồng không quan tâm gia đình nên thường hay cãi nhau dẫn đến mâu thuẫn ngày càng nhiều. Đến cách nay khoảng hơn 06 tháng thì mâu thuẫn trầm trọng và không còn sống chung đến nay. Từ khi không còn sống chung vợ chồng không tới lui thăm nhau, không hàn gắn tình cảm. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài chị N yêu cầu được ly hôn với anh Ng. về quan hệ con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lê Thị Kim N1, sinh ngày 15/4/2015 (hiện do chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng). Khi ly hôn, chị N yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Ng cấp dưỡng nuôi con chung. Về quan hệ tài sản chung: Không có. Về quan hệ nợ chung: Không có.
Tại phiên tòa, chị N giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Bị đơn anh Lê Hữu Ng được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Ng vẫn vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến và không hòa giải được.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Chị Nguyễn Thị N yêu cầu ly hôn với anh Lê Hữu Ng, anh Ng có nơi cư trú ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Bị đơn anh Lê Hữu Ng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Ng là có căn cứ.
[3] Chị Nguyễn Thị N yêu cầu ly hôn với anh Lê Hữu Ng. Chị N và anh Ng có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân giữa hai người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc chị N yêu cầu ly hôn và triệu tập anh Ng tham gia các phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa, nhưng anh Ng vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của chị N. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị N và anh Ng đã diễn ra trong thời gian dài, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh Ng không quan tâm gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày mâu thuẫn nhiều hơn và không còn chung sống cách nay hơn 06 tháng. Bên cạnh đó, trong thời gian này hai bên cũng không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu chung sống với nhau cũng không hạnh phúc. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N là phù hợp theo quy định pháp luật.
[4] về quan hệ con chung: Trong thời gian chung sống, chị N xác định vợ chồng có 01 con chung tên Lê Thị Kim NI, sinh ngày 15/4/2015 (hiện do chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng). Khi ly hôn, chị N yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau, cháu Ngọc do chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên tâm tư tình cảm của cháu gắn liền với người nuôi dưỡng và trong quá trình giải quyết anh Ng cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu này của chị N. Do đó, để chị N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Ngọc là phù hợp với pháp luật.
[5] Đối với cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị N không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[6] Về quan hệ tài sản chung: Chị N xác định, không có nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[7] Về quan hệ nợ chung: Chị N trình bày, không có nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[8] Án phí hôn nhân sơ thẩm: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: - Các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
- Các Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
- Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị N đối với anh Lê Hữu Ng.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Lê Hữu Ng.
Giấy chứng nhận kết hôn số 169, ngày 15 tháng 4 năm 2013 do Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai cấp cho chị Nguyễn Thị N và anh Lê Hữu Ng không còn giá trị pháp lý.
- Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị N được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Lê Thị Kim Nl, sinh ngày 15/4/2015 (hiện do chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng). Anh Ng không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Chị Nguyễn Thị N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Lê Hữu Ng trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
- Về quan hệ tài sản chung: Không có.
- Về quan hệ nợ chung: Không có. Ghi nhận việc chị Nguyễn Thị N xác định không có nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng sau khi quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì chị Nguyễn Thị N và anh Lê Hữu Ng phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, chị Nguyễn Thị N phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số 0013007 ngày 08/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Chị N đã nộp đủ án phí.
Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 214/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 214/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về