Bản án 214/2017/HS-ST ngày 07/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 214/2017/HS-ST NGÀY 07/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý 218/2017/HSST ngày 19 tháng 10 năm 2017 đối với:

Bị cáo Nguyễn Thị Phƣơng A, sinh năm 1979, tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; HKTT: 412/5 đường T, phường 8, TP V, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; chỗ ở khi bịbắt: phòng số 301 Nhà nghỉ M, số 300 đường N, phường 7, TP V; trình độ học vấn:01/12; nghề nghiệp: không; cha: Nguyễn Hoàng M, đã chết; mẹ: Nguyễn Thị ThuNg, SN: 1957;

Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11 tháng 7 năm 2017, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP Vũng Tàu. (bị cáo có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1.  Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 17h15’ ngày 11/7/2017, con nghiện tên Nguyễn Lê H, đến phòng số 301 Nhà nghỉ M, số 300 đường N, phường 7, TP Vũng Tàu gặp Nguyễn Thị Phương A, hỏi mua 01 gói ma túy tổng hợp (tên gọi khác là hàng đá) với giá 200.000đ. A đồng ý và bán 01 gói MTTH cho H với giá 200.000đ, thì bị lực lượng Cụm đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 3- Bộ tư lệnh Cảnh sát biển (LLCụm ĐNPCTPMT số 3- BTL CSB) kết hợp với Công an phường 7, TP V bắt quả tang. Cơ quan chức năng thu giữ được tang, tài vật của A gồm: 200.000đ (là tiền vừa nhận của con nghiện); 02 gói nylon, hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (A khai là MTTH); 01 điện thoại di động hiệu Nokia, kèm sim số: 0933975450. Thu trên tay của con nghiện tên Nguyễn Lê H: 01 gói nylon, hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (cả hai cùng khai là MTTH, A vừa bán cho H).

Quá trình điều tra, A khai nhận: A sử dụng MTTH khoảng 3 tháng nay. Nguồn ma túy, A mua của một thanh niên cũng tên là A không rõ lai lịch ở  TP V bán với giá: 1.200.000đ/1 gói để sử dụng. A quen biết và có sử dụng chung ma túy với con nghiện tên H nên H biết A có ma túy. A đã 02 lần bán MTTH cho H đều tại địa điểm phòng số 301 Nhà nghỉ M số 300 đường N, phường 7, TP V. Cụ thể: lần thứ nhất vào ngày 10/7/2017, A bán 01 gói MTTH với giá 200.000đ; lần thứ hai là vào lúc 17h15’ ngày 11/7/2017, A bán 01 gói MTTH với giá 200.000đ thì  bị bắt quả tang. Cứ mỗi lần bán ma túy cho con nghiện, A lời 50.000đ.

Lời khai của Nguyễn Thị Phương A phù hợp chứng cứ thu thập được và phù hợp lời khai con nghiện Nguyễn Lê H. H khai đã 02 lần mua MTTH do A bán với số tiền, số lượng MTTH, thời gian và địa điểm mua bán như trên.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” .

2. Các vấn đề khác:

Bản kết luận giám định số: 165/GĐ-PC54 ngày 28 tháng 7 năm 2017 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kết luận:

1. Chất kết tinh không màu- trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng (số thứ tự: 01), có hình dấu của Công an phường 7- CATP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Vũ Trí Đức, Nguyễn Lê H, Trần Quang Long, Nguyễn Thị Phương A, Nguyễn Xuân Thành, gửi đến giám định có trọng lượng là 0,1816 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

2. Chất kết tinh không màu- trong suốt chứa trong 02 (hai) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng (số thứ tự: 02), có hình dấu và các chữ ký ghi họ tên như trên mục 1, gửi đến giám định có  trọng lượng là 1,7087 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại gì về kết luận giám định.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số 224/CT-VKS ngày 19/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu truy tố bị cáo Nguyễn Thị Phương A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Vũng Tàu  đề nghịHĐXX áp dụng điểm b khoản 2 Điêu 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS năm 1999, đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 07 năm tù đến 08 năm tù. Đề nghị không phạt tiền đối với  bị cáo. Về xử lý vật chứng: đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; tịch thu sung công 01 ĐTDĐ hiệu Nokia và 200.000đ.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX  nghị án: “Bị cáo rất hồi hận về hành vi phạm tội, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo”

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với diễn biến của vụ án đã xảy ra, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập được, lời khai của con nghiện và biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ trong vụ án, kết luận giám định của cơ quan chuyên môn, từ đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 17h15’ ngày 11/7/2017, tại  phòng số 301 Nhà nghỉ M, số 300 đường N, phường 7, TP V, Nguyễn Thị Phương A bán 01 gói MTTH cho con nghiện tên Nguyễn Lê H, thì bị LLCụm ĐNPCTPMT số 3- BTL CSB kết hợp với Công an phường 7, TP Vũng Tàu bắt quả tang. Tổng trọng lượng MTTH thu giữ của bị cáo và trọng lượng MTTH mà bị cáo bán cho con nghiện tên H là 1,8903 gam chất ma túy, loại Methamphetamine. Tính đến ngày bị bắt, bị cáo đã hai lần bán MTTH cho con nghiện tên H, do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, hành vi của bị cáo không những ảnh hưởng đến đời sống kinh tế trên địa bàn thành phố Vũng Tàu, làm mất A ninh trật tự tại địa phương mà còn tạo điều kiện cho bọn mua bán ma túy hoạt động, do đó cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tự thừa nhận về hành vi phạm tội nhiều lần nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46 của BLHS năm 1999.

Mức hình phạt và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có cơ sở để chấp nhận

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là con nghiện, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 41 BLHS năm 1999 và Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định;

- Tịch thu, sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia vì bị cáo sử dụng điện thoại này để liên lạc mua bán ma túy; 200.000đ là tiền mua bán ma túy.

[7] Về án phí HSST:

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy bA thường vụ Quốc hội, quy định về án phí và lệ phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bô bị cáo Nguyễn Thị Phương A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điêu 194 BLHS năm 1999; điểm o, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS năm 1999

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Phƣơng A 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11 tháng 7 năm 2017

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS và Điều 76 BLTTHS;

- Tịch thu tiêu hủy 02 gói niêm phong số 165/1 và 165/2GĐ – PC 54 ngày 28 tháng 7 năm 2017

- Tịch thu, sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia kèm sim và 200.000đ (hai trăm ngàn đồng)

(Toàn bộ vật chứng hiện Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 27/BB.THA ngày 25/10/2017 và Biên lai thu tiền số 0008387 ngày 27/10/2017)

5. Án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS năm 2003 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đông) án phí Hình sự sơ thẩm.

6. Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (07/11/2017) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 214/2017/HS-ST ngày 07/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:214/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về