Bản án 213/2020/HS-ST ngày 21/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 213/2020/HS-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 202/2020/HSST ngày 19 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 227/2020/QĐXX–HS ngày 27 tháng 8 năm 2020, đôi vơi bi cao:

Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1982 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở trước ngày bị bắt: Số 780/15 đường P, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 4/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Văn Th, sinh năm: 1949 và bà Trần Thị T, sinh năm 1953; bị cáo là con thứ 5 trong gia đình, Hiện chung sống với anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1975 và có 01 con sinh năm 2015 với anh K.

Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị bắt ngày 13-5-2020, đến ngày 04-6-2020 được áp dụng biện pháp cho gia đình bảo lĩnh, hiện trú tại 780/15 đường P, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (có mặt) Người làm chứng:

Ông Nguyễn Văn K, sinh năm: 1975.

Địa chỉ: Số 780/15 đường P, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 13-5-2020, Nguyễn Thị Thu T nhờ anh Nguyễn Văn K sử dụng xe máy Wave S100 biển số 72K2.2689 chở T đi từ hẻm 105 đường L, phường N, thành phố V đến chung cư Lapen Center số 33 đường B, phường C, thành phố V, khi đến hẻm bên phải của chung cư Lapen Center khoảng 14 giờ 55 phút thì bị lực lượng phòng chống ma túy và tội phạm Biên phòng cửa khẩu Cảng Bà Rịa – Vũng Tàu, Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bắt quả tang T đang cầm trên tay 01 gói nilon hàn kín bên trong chứa chất kết tinh không màu trong suốt ngay sau đó T thả gói nilon đó xuống đất.

Tại cơ quan điều tra, T khai nhận gói nilon bị cơ quan chức năng thu giữ là ma túy đá, do cần tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân nên T đã mua ma túy của một người thanh niên tên L (không rõ nhân thân lai lịch) tại thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với giá 1.000.000 đồng mang về nhà cất giấu để bán cho con nghiện nhằm mục đích kiếm lời, nhưng khi mới đến hẻm bên phải của chung cư Lapen Center thì bị bắt quả tang như trên.

Bản kết luận giám định số 215/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 18 tháng 5 năm 2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín gửi đến giám định có khối lượng 1,5710 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Việc thu giữ và xử lý vật chứng:

- 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất kết tinh không màu trong suốt (215/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 18 tháng 5 năm 2020).

- Số tiền là 2.258.000đ (hai triệu hai trăm năm mươi tám ngàn đồng).

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1203, số IMEL: 357732102304455.

Vật chứng hiện đang do Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý.

Bản cáo trạng số 213/CT-VKS ngày 14-8-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1, Điều 251 Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung cáo cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo T, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1, Điều 251, Điều 38, điểm n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T mức án từ 02 (hai) năm đến 03 (ba) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma tuý là tang vật vụ án; tịch thu sung công quỹ nhà nước đối với điện thoại di động hiệu Nokia 1203, số IMEL:

357732102304455 do liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo; trả lại cho bị cáo số tiền là 2.258.000 đồng (hai triệu hai trăm năm mươi tám ngàn đồng).

- Bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt do bị cáo đang có thai và nuôi con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Căn cứ lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa, đối chiếu lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, tang vật bị thu giữ, bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:

Khoảng 14 giờ 55 phút ngày 13-5-2020 tại hẻm bên phải chung cư Lapen Center các lực lượng chức năng về phòng chống ma túy và tội phạm tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phối hợp bắt quả tang Nguyễn Thị Thu T đang tàng trữ khối lượng 1,5710 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích bán lại cho con nghiện để kiếm lời.

Hành vi của bị cáo T đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát đã truy tố là đúng.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến việc quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, hành vi của bị cáo là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ việc mua bán ma túy gây tác hại vô cùng nghiêm trọng trong xã hội, là nguyên nhân phát sinh tệ nạn nghiện, hút, chích ma túy và nhiều tệ nạn xã hội khác, làm ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần, kinh tế của cộng đồng, xã hội. Bị cáo không nghiện ma túy nhưng vì để có tiền trả nợ, tiêu sài nên đã bất chấp thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt phù hợp, đủ mức răn đe giáo dục bị cáo, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Vvề tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

[4.1] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Khi phạm tội bị cáo đang mang thai, nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo tốt, làm người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói ma tuý đã qua giám định số 215/GĐMT – PC09 ( Đ2 ) ngày 18 tháng 5 năm 2020.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước đối với điện thoại di động hiệu Nokia 1203, số IMEL: 357732102304455 do bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy.

Trả lại cho bị cáo số tiền là 2.258.000 đồng (hai triệu hai trăm năm mươi tám ngàn đồng) do không liên quan đến hành vi phạm tội.

[6] Các vấn đề khác: Đối với anh Nguyễn Văn K do không biết là T đi bán ma túy mà khi nhờ anh K chở đi T nói là đi trả nợ, nên anh K đồng ý chở T đi. Do đó, anh K không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cao.

Người thanh niên tên L tại thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã bán ma túy cho T do chưa rõ lai lịch nên chưa có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Thị Thu T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm n, s khoản 1 Điêu 51 Bộ luật hình sự.

Xư phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Thu T 24 (hai mƣơi bốn) tháng tù. Được khấu trừ thời gian đã tạm giam từ ngày ngày 13-5- 2020 đến ngày 04-6-2020. Thời hạn còn lại tính từ ngày bị cáo bị bắt để thi hành án.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số 215/GĐMT – PC09 ( Đ2 ) ngày 18 tháng 5 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Tịch thu sung công 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1203, số IMEL: 357732102304455 của bị cáo T.

- Trả lại cho bị cáo T số tiền là 2.258.000đ (hai triệu hai trăm năm mươi tám ngàn đồng).

Vật chứng nêu trên Chi cục Thị hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 203/BB.THA ngày 08-9-2020.

3. Về án phi: Bị cáo Nguyễn Thị Thu T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đông) án phí hinh sư sơ thâm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu câu Tòa an nhấn dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 213/2020/HS-ST ngày 21/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:213/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về