Bản án 213/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 213/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 205/2020/TLST – HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đinh Thị T, sinh năm 1971 Nơi cư trú: Xóm Q, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Có mặt) Bị đơn: Ông Hồ Thái S, sinh năm 1968 Trú tại: Xóm Q, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An.(Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và tại biên bản ghi lời khai, nguyên đơn bà Đinh Thị T trình bày: Bà và ông Hồ Thái S chung sống cùng nhau từ ngày 06/02/1990, không làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định. Trong cuộc sống chung, ông bà chung sống với nhau không hạnh phúc mà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Ông S hay uống rượu, sau đó lại chửi bới, đánh đập vợ con. Bao nhiêu năm sống chung cùng ông S là bấy nhiêu năm bà phải chịu đựng những trận đánh đập, chửi bới vô cớ của ông S. Không thể chịu đựng sống chung cùng ông S nên từ đầu tháng 10/2020 bà đã đi sống cùng con gái. Nay xác định tình cảm vơ chồng không còn, không thể tiếp tục sống chung cùng ông S nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà và ông S được ly hôn và không công nhận quan hệ vợ chồng của ông bà.

Bà và ông S có 03 người con chung là Hồ Xuân H, sinh ngày 24/10/1990, Hồ Thị Ng, sinh ngày 03/01/1992 và Hồ Thị Ng, sinh ngày 03/7/1993. Hiện nay các con chung của ông bà đều đã trưởng thành, do đó bà không đề xuất gì về giao nuôi con khi vợ chồng ly hôn.

Bà và ông S đã tự chia tài sản cho nhau, do đó bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

Tại bản tự khai ngày 08/12/2020 và trong quá trình xét xử, bị đơn ông Hồ Thái S trình bày:

Ông và bà Đinh Thị T chung sống cùng nhau từ ngày 06/02/1990, ông bà không làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định. Năm 2019 thì vợ chồng ông phát sinh mâu thuẫn do hai bên không hiểu nhau, bất đồng về quan điểm sống. Nay tình cảm vợ chồng không còn, ông bà cũng đã sống ly thân. Bà T xin ly hôn và yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng của ông bà, ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Vợ chồng ông có 03 con chung là cháu H, Ng, Ng như bà T trình bày. Ông và bà T ly hôn, ông không đề xuất gì về giao nuôi các con vì hiện nay các con chung của ông bà đều đã trưởng thành.

Ông bà đã thỏa thuận chia tài sản cho nhau, do đó ông không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp phát biểu ý kiến:

Qua kiểm sát giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa thấy rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 14, 53 Luật Hôn nhân và Gia đình Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, xử: Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Đinh Thị T và ông Hồ Thái S; Về con chung: Các con chung của bà T, ông S đều đã đủ 18 tuổi, trưởng thành nên đề nghị không xem xét; Về tài sản: Bà T, ông S không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét; Về án phí: Bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Xét đơn khởi kiện của bà Đinh Thị T thì đây là vụ án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng. Bị đơn ông Hồ Thái S có hộ khẩu thường trú tại xóm Q, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo quy định tại khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về các yêu cầu của đương sự:

Xét thấy, bà Đinh Thị T và ông Hồ Thái S tự nguyện sống chung với nhau từ năm 1990 không có đăng ký kết hôn và cho đến hôm nay cũng không đăng ký kết hôn nên căn cứ theo khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì giữa bà Đinh Thị T và ông Hồ Thái S không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Nay bà T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông bà. Căn cứ vào khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Đinh Thị T và ông Hồ Thái S.

[3] Về con chung: 03 người con chung của bà Đinh Thị T, ông Hồ Thái S là Hồ Xuân H, sinh ngày 24/10/1990, Hồ Thị Ng, sinh ngày 03/01/1992 và Hồ Thị Ng, sinh ngày 03/7/1993 đều đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản: Bà Đinh Thị T và ông Hồ Thái S không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Bà Đinh Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 14, 53 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Đinh Thị T và ông Hồ Thái S.

Về án phí: Bà Đinh Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ trong số tiền tạm ứng án phí 300.000,đ bà Đinh Thị T đã nộp theo biên lai thu số 0001795 ngày 25 tháng 11 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, bị đơn. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 213/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn

Số hiệu:213/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về