Bản án 213/2020/HNGĐ-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp ly hôn, muôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 213/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, MUÔI CON

Ngày 22 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C M xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 537/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 457/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 420/2020/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Bé T, sinh năm 1988: địa chỉ: số 335, tổ 13, tổ 13, ấp H , xã K A, huyện CM, tỉnh An Giang, (có mặt).

2. Bị đơn: Anh Lê Văn N, sinh năm 1987: địa chỉ: Lô 5, N5, ấp K B , xã K A, huyện C M, tỉnh An Giang, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Đặng Thị Bé T trình bày: Chị và anh N do mai mối và được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới năm 2014, vợ chồng có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã x K A, huyện C M t, vợ chồng sống chung không hạnh phúc, NHng vẫn sống chung trong nhà, đến tháng 5 năm 2020 anh N tự ý bỏ đi cho đến nay, nguyên nhân do bất đồng quan điểm không hợp nhau, anh N chỉ biết ăn chơi không lo cho vợ con, chị có khuyên NHng anh không sửa đổi. Nay nhận thấy tình cảm không còn chị yêu cầu ly hôn với anh N.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Lê Văn N, sinh ngày 12/9/2007; Lê Ngọc NH, sinh ngày 12/9/2017, hiện nay đang sống chung với chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Đặng Thị Bé T xác định không có.

- Về nợ chung: Chị Đặng Thị Bé T xác định không có.

Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ anh Lê Văn N đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải NHng anh N vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Đặng Thị Bé T khởi kiện anh Lê Văn N cư trú ấp K B , xã K A, huyện C M, tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân huyện C M thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Lê Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa NHng vắng mặt. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh N.

[2]. Về hôn nhân: Chị T và anh N sống chung với nhau vào năm 2004, anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy nhân dân xã x K A, huyện C M t, tỉnh An Giang nên quan hệ hôn nhân giữa anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống do anh, chị bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, anh N chỉ biết ăn chơi không lo cho vợ con, chị có khuyên NHng anh không sửa đổi, anh chị không còn chung sống từ tháng 5 năm 2020 cho đến nay nên dẫn đến va chạm, mâu thuẫn, mất lòng tin với nhau, NH vậy mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung giữa chị T và anh N không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, chị T yêu cầu ly hôn với anh N, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình “ Khi vợ hoặc chồng xin ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn….” Tại phiên tòa, chị T xác định tình cảm không còn. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.

[3]. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Lê Văn N, sinh ngày 12/9/2007; Lê Ngọc NH, sinh ngày 12/9/2017. Hiện nay cháu N, cháu NH đang sống chung với chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên, hiện nay cháu N, cháu NH sống ổn định với chị T vẫn phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Trong quá trình làm việc Tòa án đã tiến hành ghi nhận ý kiến và nguyện vọng của cháu N thì cháu có nguyện vọng sống với chị T, anh N không có ý kiến phản đối. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu N, cháu NH chị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình “ Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con ; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên Tòa chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Chị T xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về nợ chung: Chị T xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận chị T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của chị T và anh N trong thời kỳ hôn nhân thì anh chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Đặng Thị Bé T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Các Điều 28, 35, 39, 146, 147, 228, 235, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 53, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Bé T.

- Về hôn nhân: Chị Đặng Thị Bé T được ly hôn với anh Lê Văn N.

Giấy chứng nhận kết hôn số 260, quyển 01 ngày 02/10/2017 của Ủy ban nhân dân xã x K A, huyện C M t, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Chị Đặng Thị Bé T được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung tên Lê Văn N, sinh ngày 12/9/2007; Lê Ngọc NH, sinh ngày 12/9/2017. Anh Lê Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Đặng Thị Bé T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Lê Văn N trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về tài sản chung: Chị Đặng Thị Bé T xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Chị Đặng Thị Bé T xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận chị T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của chị T và anh N trong thời kỳ hôn nhân thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Về án phí: Chị Đặng Thị Bé T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0008649 ngày 02/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C M, tỉnh An Giang. Chị T không phải nộp thêm.

Đương sự có mặt tham gia phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 213/2020/HNGĐ-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp ly hôn, muôi con

Số hiệu:213/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về