Bản án 212/2021/DSPT ngày 23/04/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 212/2021/DSPT NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 19 và ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 487/2020/TLPT-DS ngày 09 tháng 10 năm 2020 “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 11/2020/DS-ST ngày 24/06/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:4021/2020/QĐPT-DS ngày16 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Ngô Văn H, sinh năm: 1957;

Địa chỉ: Số ...Nguyễn Thị H, Phường x, thành phố Tân A, tỉnh Long An. Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn (văn bản ủy quyền ngày 17 tháng 01 năm 2018): Ông Đỗ Văn H, sinh năm: 1970; (có mặt).

Địa chỉ: Số ... khu phố x, thị trấn Tân T, huyện Bình Ch, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn:

1. Ông Phan Văn Ng, sinh năm: 1940;

Địa chỉ: Số .., Ấp x, xã Phước L, huyện Bến L, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn (văn bản ủy quyền ngày 11 tháng 6 năm 2019): Ông Phan Phước Thạnh, sinh năm: 1973;(ngày tuyên án, có mặt).

Địa chỉ: Số .., Nguyễn Văn Ng, Phường x, quận Gò V, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bà Trần Thị Ch, sinh năm 1928; (vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án).

3. Ông Trương Văn Đ, sinh năm 1957;(vắng mặt).

ng địa chỉ: Số …, Ấp x, xã Phước L, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Ngô Văn P, sinh năm 1959;(vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Bình Hữu x, xã Đức Hòa Th, huyện Đức H, tỉnh Long An.

2. Bà Ngô Thị Thu S, sinh năm 1974;(vắng mặt).

3. Ông Ngô Trường S, sinh năm 1970;(vắng mặt).

ng địa chỉ: Ấp x, xã Phước L, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

4. Ông Lê Thắng C, sinh năm 1953;(vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp x, xã Mỹ Y, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

5. Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1950;(vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Xẻo C, xã Thanh X, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

6. Ông Trần Hiền H, sinh năm 1985;(vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp x, xã Thạnh Đ, huyện Bến L, tỉnh Long An.

7. Bà Trần Ngọc V, sinh năm 1951;(vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Tân P, thị trấn Cái T, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

8. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An.

Địa chỉ trụ sở: Số xx, Quốc lộ xx, Phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Tùng C – Giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Long An; (vắng mặt).

9. Anh Dương Quốc Khánh T, sinh năm: 1997;

10. Anh Dương Quốc Khánh H, sinh năm: 1999;

ng địa chỉ: Số .., Trần Thị Ng, Phường x, quận Gò V, Thành phố Hồ Chí Minh 11. Anh Trịnh Hoàng Đ, sinh năm: 1993;

Địa chỉ: Số …, Nguyễn Văn Ng, Phường x, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của Khánh T, Khánh H, Hoàng Đ: Ông Dương Hữu Tr, sinh năm: 1962;(có mặt).

Địa chỉ: Số 40/9xx, Trần Thị Ng, Phường x, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Được ủy quyền theo văn bản ủy quyền ngày 17 tháng 02 năm 2020 được chứng nhận của Văn phòng Công chứng Nguyễn Thị T).

12. Ủy ban nhân dân xã Phước L huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

Địa chỉ trụ sở: Ấp Chợ, xã Phước L, huyện Bến L, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp của Ủy ban: Ông Nguyễn Văn V, Chủ tịch; (vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Phan Minh T, sinh năm: 1970;(vắng mặt).

Địa chỉ: Số …, Ấp 2, xã Phước L, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

2. Ông Trần Văn X, sinh năm: 1946;(vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp x, xã Phước L, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

3. Ông Phan Văn P, sinh năm: 1949; (vắng mặt).

Địa chỉ: Số xx, Ấp x, xã Phước L, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

- Người kháng cáo:nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Trong đơn khởi kiện ngày 22 tháng 9 năm 2017, đơn khởi kiện bổ sung và các lời khai trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn ông Ngô Văn H cũng như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Đỗ Văn H trình bày:

Ông H là con ruột của ông Ngô Văn H1, ông H1 chết ngày 15 tháng 10 năm 2013. Ông H1 có các người con gồm ông Ngô Văn H; ông Ngô Văn P sinh năm 1959 và bà Ngô Thị C, sinh năm 1954, bà C chết trước ông H1 vào ngày 29 tháng 3 năm 2009, bà C có hai người con là Ngô Trường S, sinh năm 1970 và Ngô Thị Thu S, sinh năm 1974.

Nguồn gốc các thửa đất số 762, 763, 765 và 848 thuộc tờ bản đồ số 2, xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 673153 ngày 28 tháng 11 năm 2000 của ông Ngô Văn H1 có được là do ông H1 được Cách mạng cấp vào năm 1959, trước đó ông H1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987 theo mẫu cũ của tỉnh số 1525 H vào ngày 24 tháng 7 năm 1990 tại thửa đất số 475, 476, 477 và 478. Toàn bộ quyền sử dụng đất này ông H1 trực tiếp sử dụng cho đến khi chết năm 2013, trong đó có một phần diện tích đất gia đình ông H1 sử dụng để làm thổ mộ không canh tác.Sau khi ông H1 chết, các anh em ông H thỏa thuận chia đất lại để sử dụng, thống nhất giao thửa đất số 765 cho ông H sử dụng.

Tiếp giáp với thửa 765 là thửa 849 của bà Trần Thị Ch và thửa 767 của ông Phan Văn Ng, nguồn gốc đất của bà Ch có được cũng do Cách mạng cấp cho chồng bà Ch là ông Trương Văn Ph và trong đó cũng có một phần đất được sử dụng để làm đất thổ mộ chôn cất. Năm 2011, ông Ng xây dựng nhà trên thửa 767 để ở và kinh doanh nhà nghỉ nên đã thỏa thuận miệng với ông Đ là con bà Ch mua lại quyền sử dụng một phần đất thuộc thửa 849 của ông Đ làm lối đi ra đường công cộng cho thuận tiện việc kinh doanh, cùng năm 2011 thì ông Ng san lấp làm đường đi bằng bê tông. Trong quá trình san lấp để tạo lối đi trên một phần thửa 849 của bà Ch, ông Ng đã san lấp và lấn sang một phần thửa 765 của ông H1 diện tích khoảng 90m2. Trong quá trình chuyển nhượng giữa ông Ng và bà Ch, ông Đ thì ông H1 chỉ ký làm chứng là bà Ch có chuyển nhượng đất cho ông Ng, không biết việc ông Ng mua phần đất có lấn chiếm sang đất của ông H1. Khi ông Ng xây dựng đường đan bằng bê tông thì ông H có thông tin cho ông Ng, ông Đ, bà Ch ngăn cản, nhưng họ cho rằng đây là đất của bà Ch nên có quyền chuyển nhượng, do thời điểm đó ông H không trích lục được bản đồ địa chính nên không có làm đơn khiếu nại, không có mời chính quyền địa phương đến chứng kiến. Thửa đất số 765 hiện nay do ông H quản lý sử dụng để trồng lúa, không có ai khác sử dụng chung thửa đất này với ông H. Sau khi ông H1 chết do tranh chấp với ông Ng nên ông H chưa làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm 2012 ông H mới làm đơn khiếu nại, năm 2013 thì ông H tranh chấp tại Ủy ban xã Phước Lợi, năm 2014 ông H khởi kiện tại Tòa án.

Ông H khởi kiện yêu cầu ông Ng tháo dỡ đường đan cùng toàn bộ vật kiến trúc trên đất như trụ cổng, cổng, trụ điện, yêu cầu ông Ng cùng bà Ch ông Đ trả lại cho ông quyền sử dụng một phần thửa đất số 756, sau khi tiến hành đo đạc và chỉnh lý bản vẽ trích đo nhiều lần, ông H cùng người đại diện hợp pháp của ông H là ông Đỗ Văn H yêu cầu ông Ng tháo dỡ vật kiến trúc, yêu cầu ông Ng ông Đ bà Ch trả lại cho ông H 109,5m2 đất. Căn cứ vào mảnh trích đo địa chính số 46-2019 ngày 26 tháng 02 năm 2019 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Bến Lức phê duyệt ngày 08 tháng 5 năm 2019 và bản vẽ phân khu ngày 09 tháng 3 năm 2020 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú thì vị trí quyền sử dụng 109,5m2 đất ông H yêu cầu thuộc khu F và F1.

Ngoài ra do bà Ch chuyển nhượng phần diện tích đất tại thửa đất số 849 cho nhiều người gồm các ông bà Trần Ngọc Vân, Nguyễn Minh H, Lê Thắng C, Trần Hiền H, những người này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thành các thửa đất riêng 3584, 3585, 3586, 3587 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phần diện tích đất ông H tranh chấp với ông Ng tại vị trí F và F1 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An chỉnh lý thành đường công cộng nên ông H yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần chỉnh lý đường công cộng, cụ thể các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: số CH 703712;

CH 703711; CH 703710; CH 703713 cùng ngày 03 tháng 3 năm 2017 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho bà Trần Ngọc Vân, ông Nguyễn Minh H, ông Lê Thắng C, ông Trần Hiền H tại các thửa đất số 3584, 3585, 3586, 3587 TBĐ số 2, tọa lạc tại Ấp 2, xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An đối với phần thể hiện đường công cộng 2,4m.

*Bị đơn ông Phan Văn Ng trình bày:

Phần diện tích đất mà ông H khởi kiện tranh chấp với ông có nguồn gốc do ông nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị Ch. Do có nhu cầu mở lối đi nên ông có thỏa thuận với ông Đ và bà Ch mua lại quyền sử dụng 155m2 với giá 129.000.000đồng; hai bên có lập hợp đồng bằng giấy tay có sự chứng kiến của Trưởng ấp là ông Phan Minh T cùng một số người làm chứng khác, nhưng không thực hiện thủ tục công chứng theo quy định do không đủ diện tích để tách thửa. Sau khi thanh toán tiền xong thì ông tiến hành đắp nền và xây dựng đường đan bê tông toàn bộ diện tích để làm lối đi, xây dựng cổng, trụ cổng, tổng chi phí ông bỏ ra xây dựng là 300.000.000đồng. Ông hoàn toàn không có lấn chiếm đất của ông H1 ông H.Khi lập thủ tục chuyển nhượng, khi san lấp đường đi ông H1 có chứng kiến có chỉ ranh giới cho ông xây dựng. Toàn bộ đường đi này hiện nay chỉ có gia đình ông sử dụng, ông đã lập thủ tục chuyển nhượng các thửa đất của ông cho các cháu ông gồm Trịnh Hoàng Đ, Dương Quốc Khánh T, Dương Quốc Khánh H tại các thửa đất số 767 và 769 số thửa mới là 252 và 319.

Trước yêu cầu khởi kiện của ông H yêu cầu ông tháo dỡ vật kiến trúc trên đất giao lại quyền sử dụng đất cho ông H thì ông không đồng ý. Trước đây vào ngày 03 tháng 3 năm 2017 ông có khởi kiện độc lập tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với ông Trương Văn Đ, tuy nhiên chưa làm thủ tục thụ lý đối với yêu cầu của ông thì ngày 15 tháng 3 năm 2017 ông rút lại đơn khởi kiện, ông xác định ông không tranh chấp với ông Đ bà Ch về hợp đồng chuyển nhượng đối với phần diện tích đất ông H tranh chấp, ông cũng được Tòa án giải thích về hậu quả của việc không có yêu cầu khởi kiện nếu yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận. Trường hợp có tranh chấp ông sẽ khởi kiện trong vụ án khác.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Ch trình bày:

Nguồn gốc thửa đất số 849 giáp ranh với đất của ông H1 là do Cách mạng cấp cho gia đình bà được mẹ bà là Đặng Thị Niên cho vợ chồng bà canh tác từ năm 1976, sau khi chồng bà chết thì bà được công nhận quyền sử dụng đất, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 142733 ngày 05 tháng 7 năm 2006 thì bà được công nhận 4.557m2, sau đó bà tiến hành chia đất cho các con gồm Trương Minh Phùng, Trần Văn Tao, chuyển nhượng đất cho người khác, còn lại 1.557m2 bà giao cho ông Đ trực tiếp quản lý sử dụng.

o năm 2010 ông Ng xây dựng nhà trên thửa đất số 767 để ở và kinh doanh nhưng do lối đi công cộng vào nhà ông Ng nhỏ không đủ để ô tô đi lại nên ông Ng có đề nghị ông H1 cho mở lối đi qua thửa đất 765 của ông H1 nhưng ông H1 không đồng ý nên ông Ng mới đề nghị với bà mở lối đi qua thửa đất số 849 nên bà đã chuyển nhượng cho ông Ng 156,5m2 với giá là 125.200.000đồng. Việc chuyển nhượng này có lập hợp đồng bằng giấy tay có Trưởng ấp và một số người dân địa phương chứng kiến. Sau khi chuyển nhượng xong thì ông Ng san lấp và xây dựng đường đi, chính ông H1 xác định ranh giới, ông H1 không có tranh chấp hay phản đối gì với việc xây dựng của ông Ng. Bà xác định bà chuyển nhượng đất cho ông Ng phần đất thuộc quyền sử dụng của bà chứ không phải đất của ông H1 ông H, bà không có yêu cầu gì trong vụ án đồng thời xin vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trương Văn Đ trình bày:

Ông là con của bà Ch, sống cùng nhà với bà Ch. Bà Trần Thị Ch có chuyển nhượng cho ông Ng phần đất để làm đường đi.Khi bà Ch chuyển nhượng đất cho ông Ng thì ông H1 còn sống, ông H1 có chỉ ranh đất và không có ngăn cản gì. Phần đất tranh chấp trước đây do gia đình ông sử dụng, giữa đất của bà Ch và đất ông H1 hiện trạng có một con đường đất làm bờ ranh, khi chuyển nhượng đất cho ông Ng làm đường đi thì bờ ranh chia đôi, sau đó bà Ch lấy thêm một phần đất trong diện tích đất của bà Ch để hình thành nên con đường như hiện nay.

Trước đây bờ ranh kéo dài từ đường công cộng đến cổng nhà ông Ng như hiện nay, phần đất tại một phần thửa 765 giáp đường đan về hướng Nam trước đây là gò hoang do cách mạng cấp cho gia đình ông, gia đình ông sử dụng trồng trọt trước năm 1975 sau đó do xa nhà nên không trồng trọt nữa. Sau này dùng để làm đất thổ mộ trong đó có chôn cất người nhà của ông H và tiếp giáp với phần đất này cũng là đất thổ mộ.Ông H1 có sử dụng đất để trồng trọt nhưng gia đình ông không cho. Sau khi đưa đất vào tập đoàn thì Ủy ban huyện Bến Lức lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần đất này cho ông H1. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này gia đình ông hoàn toàn không biết. Do nghĩ đất dùng để làm mồ mả nên gia đình ông không có tranh chấp. Toàn bộ thửa đất số 849 của bà Ch thì hiện nay đã chuyển nhượng cho ông Lê Thắng C, phía ông Cang đã xây tường bao ngăn cách với đường bê tông mà các bên đang tranh chấp. Việc tranh chấp giữa các bên ông không có ý kiến, ông cũng không có yêu cầu gì, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Ngô Văn P, bà Ngô Thị Thu S, ông Ngô Trường S trình bày:

Ông Ngô Văn P là em ruột của ông Ngô Văn H, bà Ngô Thị Thu S, ông Ngô Trường S là con của bà Ngô Thị C chị ruột ông H, các ông bà trình bày thừa nhận nguồn gốc thửa đất số 765 là của ông H1 do Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức cấp cho hộ gia đình ông H1, hiện do ông H trực tiếp sử dụng. Ông Ng đã xây dựng lối đi bằng xi măng lấn qua đất của gia đình ông H1. Do phần đất này ông H trực tiếp sử dụng và các ông bà đã phân chia cho ông H phần đất này nên các ông bà đồng ý để cho ông H đứng ra khởi kiện tranh chấp và nhận quyền sử dụng phần đất này nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H, các ông bà không tranh chấp cũng như không có yêu cầu gì trong vụ án này.

*Nhng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Thắng C, ông Nguyễn Minh H, ông Trần Hiền H, bà Trần Ngọc Vân do ông Phạm Văn Tâm đại diện tại Tòa án huyện Bến Lức trình bày:

o năm 2016 do có nhu cầu về nhà ở nên ông Lê Thắng C, ông Nguyễn Minh H, ông Trần Hiền H, bà Trần Ngọc Vân có nhận chuyển nhượng một phần diện tích đất của bà Ch để xây dựng nhà. Khi lập thủ tục tách thửa, chuyển mục đích, chuyển quyền, điều chỉnh diện tích sai sót, bà Ch bỏ ra khoảng 100m2 đất để làm đường công cộng và giảm diện tích so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có sự chứng kiến của ông Ng và Ủy ban nhân dân xã Phước Lợi cùng cán bộ đo đạc. Khi ký giáp ranh nhận chuyển nhượng đất thì đã có đường bê tông dọc theo đất như hiện nay. Trong thời gian lập thủ tục chuyển quyền thì không có ai khiếu nại hay tranh chấp mà chỉ có ông Ng xác nhận con đường là lối đi chung không có tranh chấp. Sau khi ông Lê Thắng C, ông Nguyễn Minh H, ông Trần Hiền H, bà Trần Ngọc Vân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng các thửa đất số 3584, 3585, 3586, 3587 thì một thời gian sau mới biết con đường hiện tại bị tranh chấp.

Do phần đường đi bị tranh chấp nên những người liên quan đã nhận chuyển nhượng thêm một phần diện tích đất của bà Ch hợp thửa để quay lối đi ra đường công cộng Đường tỉnh 835c, đồng thời những người này đã xây tường rào chắn lối đi đang tranh chấp và quyền sử dụng đất của các thửa đất mà những người này được công nhận gồm thửa 3584, 3585, 3586, 3587. Vì vậy trước yêu cầu khởi kiện của ông H yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Trần Ngọc Vân, ông Nguyễn Minh H, ông Lê Thắng C, ông Trần Hiền H tại các thửa đất số 3584, 3585, 3586, 3587 TBĐ số 2, tọa lạc tại Ấp 2, xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An đối với phần thể hiện đường công cộng 2,4m thì các đương sự không có ý kiến gì, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

*Nhng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Dương Quốc Khánh T, Dương Quốc Khánh H và Trịnh Hoàng Đ do ông Dương Hữu Tr đại diện trình bày:

Dương Quốc Khánh T, Dương Quốc Khánh H và Trịnh Hoàng Đ là cháu ruột của ông Ng, Dương Quốc Khánh T, Dương Quốc Khánh H là con Phan Thị Mỹ Hạnh con gái ông Ng, còn Trịnh Hoàng Đ là con của Phan Thị Mỹ Phượng là con gái ông Ng. Hiện nay thửa đất số 769 tờ bản đồ số 2 có vị trí bên trong phần diện tích đất ông Ng xây dựng làm đường đi do Dương Quốc Khánh T, Dương Quốc Khánh H đứng tên quyền sử dụng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng số CC 609875 và CC 609876 ngày 01 tháng 02 năm 2016, còn thửa đất số 767 tờ bản đồ số 2 thì đã được chỉnh lý sang tên cho Trịnh Hoàng Đ vào ngày 15 tháng 3 năm 2016 do ông Ng đã tặng cho các thửa đất này cho các cháu của mình. Các thửa đất hiện đang sử dụng đường đi mà ông H đang tranh chấp với ông Ng. Trước yêu cầu khởi kiện của ông H thì ông Trí đại diện cho Dương Quốc Khánh T, Dương Quốc Khánh H và Trịnh Hoàng Đ thống nhất với trình bày của ông Ng không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn.

*Trong văn bản số 2960/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 06 tháng 9 năm 2018 và trong biên bản hòa giải ngày 11 tháng 10 năm 2018, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An do ông Phạm Tùng Chinh đại diện trình bày về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu hủy phần điều chỉnh lối đi đang tranh chấp là đường đi công cộng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành CH 703710, CH 703711, CH 703712, CH 703713 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho Lê Thắng C, Nguyễn Minh H, Trần Ngọc Vân, Trần Hiền H như sau:

Ngày 05 tháng 7 năm 2006 bà Ch được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng số AĐ 142733 đối với thửa đất số 849 tờ bản đồ số 02 diện tích 4.557m2 loại đất lúa tọa lạc tại xã Phước Lợi, huyện Bến Lức.

Ngày 22 tháng 12 năm 2016 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Bến Lức đã đo đạc và điều chỉnh diện tích thửa đất số 849 từ diện tích 1.557m2 thành diện tích 1.430m2 theo biên bản kiểm tra sai sót ngày 15 tháng 12 năm 2016 và cập nhật trang bổ sung kèm theo có đường 2,4m tiếp giáp thửa đất số 765 tờ bản đồ số 02. Ngày 26 tháng 12 năm 2016, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Bến Lức duyệt các trích đo địa chính, tách một phần thửa đất số 849 thành các thửa đất số 3584, 3585, 3586, 3587 tờ bản đồ số 2 và trong trích đo bản đồ địa chính ghi nhận đường 2,4m là đường công cộng. Việc điều chỉnh hồ sơ địa chính từ đường xi măng đi vào nhà ông Ng trở thành đường công cộng được thực hiện căn cứ hồ sơ xin điều chỉnh của bà Ch đã được xã Phước Lợi huyện Bến Lức xác nhận ngày 08 tháng 12 năm 2016 và được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Bến Lức chỉnh lý biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22 tháng 12 năm 2016.

Ngày 13 tháng 01 năm 2017 bà Ch đã chuyển nhượng cho Lê Thắng C, Nguyễn Minh H, Trần Ngọc Vân, Trần Hiền H mỗi người 300m2 đất thuộc một phần thửa 849 thông qua hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được chứng nhận của Văn phòng Công chứng Phương Nam. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Bến Lức đã thụ lý, giải quyết hồ sơ và trình Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Xét thấy hồ sơ đã đầy đủ thủ tục theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành nên Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng. Việc cấp quyền sử dụng đất là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về đất đai.

Về yêu cầu khởi kiện của ông H yêu cầu hủy phần điều chỉnh lối đi đang tranh chấp thành đường đi công cộng. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An không có ý kiến, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An.

*Trong văn bản số 372/UBND-ĐC ngày 20 tháng 4 năm 2020, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân xã Phước Lợi trình bày:

Năm 2016, bà Trần Thị Ch có đề nghị điều chỉnh hình thể diện tích thửa đất số 849 tờ bản đồ số 2 đồng thời cập nhật lối đi công cộng cặp theo phần đất thuộc thửa 849, hiện trạng là lối đi bê tông. Qua đó, Ủy ban nhân dân xã đã làm việc với ông Phan Văn Ng và Trần Thị Ch thống nhất về lối đi trên, ông Phan Văn Ng đồng ý hiến phần đất mà ông đã mua của bà Trần Thị Ch để làm lối đi công cộng, cam kết không xây dựng, che chắn, tạo điều kiện cho các hộ cùng đi trên lối đi trên. Do đó Ủy ban nhân dân xã Phước Lợi có đề nghị cập nhật đường công cộng cặp theo thửa đất 849 để phục vụ cho việc đi lại của các hộ dân khu vực, trong đó có hộ ông Phan Văn Ng. Hiện nay đường đi công cộng này do Ủy ban nhân dân xã quản lý.

Ủy ban nhân dân xã Phước Lợi đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Long An căn cứ các quy định pháp luật để giải quyết yêu cầu khởi kiện của các đương sự. Ủy ban không yêu cầu Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lại với sự có mặt của Ủy ban và Ủy ban sẽ thực hiện bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Ủy ban nhân dân xã Phước Lợi yêu cầu được vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án các cấp giải quyết vụ án.

*Trong các biên bản làm việc ngày 05 tháng 3 năm 2020 người làm chứng ông Trần Văn X, ông Phan Văn P trình bày:

Ông X ông P là hàng xóm với ông Ng, ông H1 bà Ch không có họ hàng gì với những người này.

Phần diện tích đất mà ông Đ chuyển nhượng cho ông Ng để làm đường đi mà hiện tại ông H tranh chấp thì các ông biết rõ quá trình sử dụng, hiện trạng trước đây là bờ ranh giữa đất của bà Ch và ông H1, ông H1 và bà Ch chia đôi bờ ranh, bà Ch lấy nửa bờ ranh và thêm một phần đất của mình để chuyển nhượng cho ông Ng, khi chuyển nhượng các ông cũng có mặt và có chứng kiến việc chuyển nhượng, các ông có ký tên làm chứng và ông H1 cũng có mặt, khi tiến hành xác định ranh giới thì ông H1 có chỉ ranh giới và ông Ng ông Đ bà Ch tiến hành làm thủ tục chuyển nhượng, ông Phan Minh T là người đo đạc, sau đó san lấp. Các ông xác định quyền sử dụng đất ông Ng nhận chuyển nhượng thực tế là của bà Ch, không phải là của ông H1.

*Trong biên bản làm việc ngày 05 tháng 6 năm 2019 người làm chứng ông Phan Minh T trình bày:

Ông là Phó trưởng Ấp 2 xã Phước Lợi, là hàng xóm của ông H1, bà Ch và ông Ng. Khi ông Đ và ông Ng lập hợp đồng chuyển nhượng ngày 10 tháng 6 năm 2010 thì ông có chứng kiến và tiến hành đo đạc xác định phần đất chuyển nhượng cho các bên, xác định diện tích đất ông Đ bà Ch chuyển nhượng cho ông Ng cho đúng ranh giới, ông H1 có xác định chỉ ranh, có cắm cọc phần đất của ông H1 bà Ch để ông Đ ông Ng lập hợp đồng chuyển nhượng và để ông Ng san lấp thành đường đi. Trước đây ranh giới giữa đất ông H1 và đất bà Ch là ranh giới thẳng nhưng khi chỉ ranh ông H1 chỉ xéo nên đường bê tông ông Ng xây dựng mới có dạng hình xéo như hiện nay. Sau khi ông Ng xây dựng đường bê tông thì ông H1 không có ý kiến cũng như không có tranh chấp. Ông Ngô Văn H là con của ông H1 không có ở phần đất này mà đi làm ăn từ năm 1985 thỉnh thoảng mới về nên không biết đất của ông H1 có ranh giới đến đâu. Đến năm 2012-2013 ông H mới về làm giỗ sau đó phát sinh tranh chấp.Ông T xác định phần diện tích đất ông H tranh chấp là thuộc quyền sử dụng của bà Ch chuyển nhượng cho ông Ng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 11/2020/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2020, Toà án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên xử:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn H tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Phan Văn Ng, bà Trần Thị Ch, ông Trương Văn Đ diện tích 109,5m2 đất. Căn cứ vào mảnh trích đo địa chính số 46-2019 ngày 26 tháng 02 năm 2019 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Bến Lức phê duyệt ngày 08 tháng 5 năm 2019 và bản vẽ phân khu ngày 09 tháng 3 năm 2020 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú thì vị trí quyền sử dụng 109,5m2 đất ông H yêu cầu thuộc khu F và F1.

Bác yêu cầu khởi kiện của ông H yêu cầu ông Ng tháo dỡ vật kiến trúc trên diện tích 109,5m2 để giao đất cho ông H.

Bác yêu cầu khởi kiện của ông H yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần chỉnh lý đường công cộng, cụ thể các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: số CH 703712; CH 703711; CH 703710; CH 703713 cùng ngày 03 tháng 3 năm 2017 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho bà Trần Ngọc Vân, ông Nguyễn Minh H, ông Lê Thắng C, ông Trần Hiền H tại các thửa đất số 3584, 3585, 3586, 3587 tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại Ấp 2, xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An đối với phần thể hiện đường công cộng 2,4m.

Ngoài ra, bản án còn tuyên vềán phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 02/7/2020,nguyên đơn kháng cáo đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người đại diện theo ủy quyền của nguyênđơn trình bày hiện nay phần đất mà phía ông Ng đổ bê tông làm đường và xây trụ cổng đều năm trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn và nguyên đơn sử dụng từ trước đến nay, ngay từ khi ông Ng làm đường và bà Ch chỉ ranh, phía nguyên đơn đã khiếu nại, việc những người làm chứng và Ủy ban xã chấp nhận cho ông Ng hiến đất và làm tờ trình để xác định đây là đường công cộng là không đúng thực tế và không có căn cứ, do vậy đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan trình bày: Thực chất bà Ch bán đất cho ông Ng để làm đường vào là bán phần đất bà Ch đang sử dụng, giữa hai thửa đất có đường ranh đất, bà Ch bán phần đất từ đất bà Ch đến ranh của hai thửa, khi ông Ng làm đường có ông T là tổ phó và ông H1 đứng ra chỉ ranh do đó yêu cầu của ông H là không có căn cứ, đề nghị y án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát trình bày quan điểm:

Về thủ tục tố tụng, Hội đồng xét xử, các đương sự đã tuân thủ đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung kháng cáo:Hồ sơ vụ án thể hiện việc cấp đất cho các bên tại thời điểm cấp đất là cấp đại trà, không có bản đồ đo vẽ cụ thể, theo thực tế xét thấy giữa hai thửa đất của bà Ch và ông H1 có ranh đất hiện hữu, theo các nhân chứng và tổ dân phố xác nhận, bà Ch, ông Đ bán cho ông Ng đất để làm đường là trên phần đất bà Ch, khi ông Ng làm đường, ông H1 có chứng kiến và không phản đối, có ký giấy làm chứng, như vậy thể hiện việc cấp đất cho ông H1 không chính xác theo thực tế sử dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của ông Ngô Văn H làm trong hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét.

Về việc xét xử vắng mặt của một số đương sự: bị đơn bà Trần Thị Ch và ông Trương Văn Đ vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt trong suốt quá trình xét xử;

một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tuy nhiên họ không có yêu cầu gì, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Căn cứ khon 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nói trên.

[2] Xét về nội dung kháng cáo:

Ông Ngô Văn H kháng cáo và cho rằng phần đất tranh chấp đã được nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông, do đó ông yêu cầu ông Phan Văn Ng tháo dỡ toàn bộ vật kiến trúc trên đất trả lại cho ông H quyền sử dụng đất.

Căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 673153 ngày 28 tháng 11 năm 2000 do Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức cấp cho ông Ngô Văn H1, và mảnh trích đo địa chính số 46-2019 ngày 26 tháng 02 năm 2019 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Bến Lức phê duyệt ngày 08 tháng 5 năm 2019 và bản vẽ phân khu ngày 09 tháng 3 năm 2020 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú thì vị trí quyền sử dụng 109,5m2 đất ông H tranh chấp với ông Ng bà Ch và ông Đ thuộc một phần thửa số 765 tờ bản đồ số 2 của ông Ngô Văn H1.

Theo xác nhận của Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức tại văn bản số 2193/UBND-VP ngày 10 tháng 9 năm 2019 thì khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cơ quan chuyên môn đã không tiến hành đo đạc kiểm tra diện tích đất thực tế mà thuộc trường hợp cấp đại trà.

Qua sự thừa nhận của các bên, xác định giữa hai thửa đất của bà Ch và ông H1 có ranh đất để đi lại và mỗi bên sử dụng một nửa ranh này làm đường đi chung. Khi ông Ng muốn sang nhượng một phần đất để mở đường đi chung vào nhà đất của ông ở phía trong cho rộng để ô tô có thể vào, ông Ng có hỏi mua của ông H1 nhưng ông không bán, do đó ông mới mua một phần diện tích đất của ông Đ, bà Ch, giấy sang nhượng giữa hai bên, ông H1 có ký làm chứng.

Quá trình sử dụng đất,những người làm chứng gồm ông Phan Minh T, ông Trần Văn X, ông Phan Văn P xác nhận thực tế phần đất tranh chấp do bà Ch sử dụng từ trước đên nay, khi ông Ng làm đường, ông H1 chứng kiến và chỉ ranh,Hội đồng xét xử xét thấy lời khai của những người làm chứng phù hợp bởi lẽ khi bà Ch ông Đ và ông Ng lập thủ tục chuyển nhượng phần đất này để ông Ng làm đường đi thì ông H1 ở sát bênnhưng không ngăn cản chứng tỏ không có sự lấn chiếm diện tích đất ông H1 thực tế đang sử dụng.Từ khi xây dựng đường đi xong năm 2011, các đương sự hoàn toàn không có tranh chấp, chỉ khi ông H phát hiện phần diện tích đất này được cấp trong quyền sử dụng đất của ông H1 thì ông H mới tranh chấp.

Như vậy, việc Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức cấp quyền sử dụng đất cho ông H1 đối với diện tích đất tranh chấp là không đúng hiện trạng sử dụng, không đúng đối tượng. Chính vì vậy không có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H tranh chấp quyền sử dụng đất đối với ông Ng, bà Ch và ông Đ cũng như không có cơ sở buộc ông Ng phải tháo dỡ vật kiến trúc trên đất mà cần bác yêu cầu này cũng như yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần chỉnh lý đường công cộng, cụ thể các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: số CH 703712; CH 703711; CH 703710; CH 703713 cùng ngày 03 tháng 3 năm 2017 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho bà Trần Ngọc Vân, ông Nguyễn Minh H, ông Lê Thắng C, ông Trần Hiền H tại các thửa đất số 3584, 3585, 3586, 3587 TBĐ số 2, tọa lạc tại Ấp 2, xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An đối với phần thể hiện đường công cộng 2,4m.

Đối với việc cấp đất không đúng đối tượng cho ông H1, do không có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H1 đối với phần diện tích đất tranh chấp và hiện nay ông H1 đã chết nên Hội đồng xét xử không xem xét, cơ quan quản lý nhà nước về đất đai đối chiếu các quy định của pháp luật xử lý phần quyền sử dụng đất cấp không đúng đối tượng cho ông H1 đối với phần diện tích đất tranh chấp theo quy định của pháp luật về đất đai.

Căn cứ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Do ông H là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 26, 34, 37, 38, 147, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 31, 32 Luật Tố tụng Hành chính; Điều 166, Điều 203 Luật Đất đai 2013; Điều 12,Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của ông Ngô Văn H, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 11/2020/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh Long An.

1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn H tranh chấp quyền sử dụng đất với ông Phan Văn Ng, bà Trần Thị Ch, ông Trương Văn Đ diện tích 109,5m2 đất. Căn cứ vào mảnh trích đo địa chính số 46-2019 ngày 26 tháng 02 năm 2019 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Bến Lức phê duyệt ngày 08 tháng 5 năm 2019 và bản vẽ phân khu ngày 09 tháng 3 năm 2020 của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú thì vị trí quyền sử dụng 109,5m2 đất ông H yêu cầu thuộc khu F và F1.

2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông H yêu cầu ông Ng tháo dỡ vật kiến trúc trên diện tích 109,5m2nói trên để giao đất cho ông H.

3. Bác yêu cầu khởi kiện của ông H yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần chỉnh lý đường công cộng, cụ thể các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: số CH 703712; CH 703711; CH 703710; CH 703713 cùng ngày 03 tháng 3 năm 2017 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho bà Trần Ngọc Vân, ông Nguyễn Minh H, ông Lê Thắng C, ông Trần Hiền H tại các thửa đất số 3584, 3585, 3586, 3587 tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại Ấp 2, xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An đối với phần thể hiện đường công cộng 2,4m.

4. Về án phí: Miễn án phí sơ thẩm, phúc thẩm cho ông Ngô Văn H.

5. Về chi phí tố tụng: ông Ngô Văn H phải chịu 13.500.000đồng chi phí đo đạc, định giá chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Số tiền này ông H đã nộp tạm ứng và chi phí xong.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

419
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 212/2021/DSPT ngày 23/04/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:212/2021/DSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về