Bản án 212/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 212/2018/HS-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố LạngSơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:231/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 233/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018, đối với các bị cáo:

1. Trần H, sinh ngày 25 tháng 5 năm 1994 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường N, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Q và bà Đỗ C; chồng con chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 23/8/2018, tạm giam ngày 26/8/2018 cho đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn T, sinh ngày 12 tháng 01 năm 1984 tại Thái Bình. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường L, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Bình; chỗ ở: Đường P, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn H và bà Phạm N; có vợ là Trình N và 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2014; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: ngày 24/3/2014, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Bình xử phạt 03 năm tù, về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án 55/2014/HSST). Năm 2005, Công an phường T, thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Năm 2006, Công an thành phố T xử phạt vi phạmhành chính về hành vi Trộm cắp tài sản. Năm 2007, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (thời hạn 12 tháng). Năm 2010, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (thời hạn 12 tháng), các tiền án tiền sự trên đã được xóa; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/8/2018 đến nay. Có mặt.

Người làm chứng: Anh NLC 1, anh NLC 2. Đều vắng mặt.

Người chứng kiến: Bà Hoàng L. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần H và Nguyễn T thường góp tiền mua ma túy về cùng nhau sử dụng và bán cho những người có nhu cầu. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 22/8/2018, tại phòng trọ của mình Trần H đưa cho Nguyễn T 1.500.000 đồng để đi mua ma túy, Nguyễn T cầm tiền đi đến khu vực công ty Bật lửa ga Long Hoa, thuộc Khối 8, phường Đông Kinh, thành phố Lạng Sơn, mua ma túy với giá 3.000.000 đồng (Nguyễn T góp 1.500.000 đồng) của một người đàn ông tên Định không rõ tên, địa chỉ cụ thể rồi đi về phòng trọ đưa cho Trần H 01 gói ma túy chứa chất tinh thể màu trắng và 01 gói ma túy chứa 05 viên nén màu hồng. Trần H bỏ thêm 03 viên ma túy dạng nén màu hồng vào gói ma túy mà Nguyễn T đưa cho rồi để tất cả số ma túy trên lên mặt bàn trong phòng. Nguyễn T cầm số ma túy còn lại đi về nhà cất giấu.

Đến khoảng 22 giờ 40 phút ngày 22/8/2018, tổ công tác Công an thành phố L, bắt quả tang tại phòng trọ của mình Trần H có hành vi bán trái phép chất ma túy cho NLC 1, thu giữ trên mặt bàn gỗ trong phòng 02 túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng, 01 túi nilon chứa 08 viên nén màu hồng và số tiền 100.000 đồng.

Khoảng 23 giờ Nguyễn T quay lại phòng trọ của Trần H, thấy lực lượng Công an đang tiến hành kiểm tra, Nguyễn T đã về nhà tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại của bản thân.

Quá trình điều đã tra chứng minh được Trần H và Nguyễn T, có nhiều lần bán ma túy, cụ thể như sau:

- Trần H đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho NLC 1 02 lần tại phòng trọ, cụ thể: Lần một: Khoảng 15 giờ ngày 12/8/2018, Trần H đã bán cho NLC 1 02 viên ma túy dạng viên nén và ma túy dạng tinh thể với giá 400.000 đồng. Lần hai: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 22/8/2018, Trần H đã bán cho NLC 1 02 viên ma túy dạng viên nén và ma túy dạng tinh thể với giá 300.000 đồng.

- Nguyễn T đã có hành vi bán trái phép chất ma túy 03 lần, cụ thể nhưsau: Lần một: Khoảng 14 giờ ngày 20/8/2018, tại Ngõ 5, đường P, phường Đ,thành phố L, Nguyễn T đã bán 02 viên ma túy dạng viên nén và ma túy dạng tinh thể cho NLC 1 với giá 500.000 đồng. Lần hai: Khoảng 03 giờ ngày 21/8/2018, tại khu vực trường Trung học phổ thông L, Nguyễn T đã bán 02 viên ma túy dạng viên nén và ma túy dạng tinh thể cho NLC 2 với giá 500.000 đồng. Lần ba: Ngày 22/8/2018, tại phòng trọ của Trần H, Nguyễn T bán 02 viên ma túy dạng viên nén và ma túy dạng tinh thể cho NLC 2 với giá 300.000 đồng.

Kết luận giám định số 306/KL-PC54 ngày 27/8/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất tinh thể màu trắng có trong 02 túi nilon và 08 viên nén mầu hồng thu giữ của Trần H đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 2,05 gam.

Cáo trạng số 227/KSĐT ngày 13 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Trần H và Nguyễn T về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần H và Nguyễn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Trần H và Nguyễn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần H từ 07 đến 08 năm tù; xử phạt bịcáo Nguyễn T từ 08 đến 09 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì qua xác minh các bị cáo không có tài sản để đảm bảo thi hành án. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng chất ma túy sau giám định, 01 cân điện tử, 01 bình thủy tinh. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 100.000 đồng. Truy thu của bị cáo Nguyễn T số tiền1.300.000 đồng, bị cáo Trần H số tiền 600.000 đồng, để sung quỹ Nhà nước. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng,các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt

người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Trần H và Nguyễn T thường góp tiền mua ma túy về để cùng nhau sử dụng và bán cho những người có nhu cầu. Quá trình điều tra chứng minh được Trần H đã trực tiếp bán trái phép chất ma túy 02 lần cho NLC 1. Nguyễn T đã trực tiếp bán trái phép chất ma túy 03 lần cho NLC 2 (02 lần) và NLC 1 (01 lần). Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

 [3] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong xã hội. Các bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, nhưng vì hám lợi, lười lao động, muốn có tiền một cách dễ dàng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

 [4] Đây là vụ án có đồng phạm, nhưng được tổ chức dưới hình thức đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng góp tiền mua ma túy về để bán cho những người có nhu cầu. Trong đó, bị cáo Nguyễn T là người trực tiếp đi mua ma túy nên bị cáo có vai trò chính. Bị cáo Trần H có vai trò thấp hơn.

 [5] Về nhân thân: Các bị cáo đều là người sử dụng chất ma túy. Bị cáo Trần H lần phạm tội này là lần đầu. Bị cáo Nguyễn T là người có nhân thân xấu từng có 04 tiền sự và có 01 tiền án 03 năm tù về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy các tiền án, tiền sự trên đã được xóa nhưng điều đó thể hiện bị cáo Nguyễn T là người khó giáo dục, cải tạo cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc để giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung.

 [6] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

 [7] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, vì vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [8] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, về mức hình phạt áp dụng đối với từng bị cáo và các vấn đề khác là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [9] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh thể hiện các bị cáo không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

 [10] Về xử lý vật chứng căn cứ khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 01 phong bì niêm phong chất ma túy sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành; 01 cân điện tử đã cũ và 01 bình thủy tinh màu trắng có gắn vòi hút nhựa không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 100.000 đồng là tiền do phạm tội mà có, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

 [11] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Tịch thu khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội của bị cáo Nguyễn T số tiền 1.300.000 đồng, bị cáo Trần H số tiền 600.000 đồng, để sung ngân sách Nhà nước.

 [12] Đối với người đàn ông tên Định bán ma túy cho Nguyễn T, do không biết tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý trong vụ án.

 [13] Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

 [14] Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b Khoản 2 Điều 251; điểm b khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần H và Nguyễn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Trần H 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 23/8/2018.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn T 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 23/8/2018.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong mẫu vật chất ma túy sau giám định; 01 cân điện tử màu xám đã cũ; 01 bình thủy tinh màu trắng có gắn vòi hút nhựa.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng).

 (Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14 tháng 11 năm 2018. Số tiền100.000 đồng được gửi tại tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn theo Ủy nhiệm chi ngày 14 tháng 11 năm 2018 của Công an thành phố Lạng Sơn)

4. Tịch thu của bị cáo Nguyễn T số tiền 1.300.000 đồng (một triệu ba trăm nghìn đồng), bị cáo Trần H số tiền 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng), để sung vào ngân sách Nhà nước.

5. Về án phí: Bị cáo Trần H và Nguyễn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 212/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:212/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về