Bản án 21/2021/ST-HNGĐ ngày 23/04/2021 về hôn nhân, con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA BÌNH, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 21/2021/ST-HNGĐ NGÀY 23/04/2021 VỀ HÔN NHÂN, CON CHUNG

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 329/2020/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 15/2021/QĐST-DS ngày 02/4/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm 1995 (Vắng mặt). Địa chỉ: TB, BL, LA, ĐN

Bị đơn: Anh Trịnh Văn K, sinh năm 1993 (Vắng mặt). Địa chỉ: MD, HB, BL

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/11/2020, các lời khai tiếp theo tại Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thùy D trình bày: Chị và anh Trịnh Văn K xây dựng hôn nhân vào năm 2016, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán của địa phương, đến ngày 29/9/2016 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Quá trình chung sống chị D và anh K không có con chung, không có tài sản chung và không có nợ chung.

Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh K không lo làm ăn nên thường xuyên cự cãi với nhau, từ đó vợ chồng chung sống không còn hạnh phúc; vợ chồng đã sống ly thân hơn 01 năm nay; trong thời gian ly thân chị D và anh K không có tìm nhau để hàn gắn quan hệ hôn nhân mà mỗi người tự sống riêng. Nay, chị D yêu cầu ly hôn với anh Trịnh Văn K.

Bị đơn là anh Trịnh Văn K đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đến lần thứ hai, nhưng anh K vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến trình bày của anh K.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình phát biểu ý kiến:

Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Thùy D đối với anh Trịnh Văn K.

Về án phí sơ thẩm hôn nhân gia đình: Chị Nguyễn Thị Thùy D phải chịu 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liêu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Trịnh Văn K là bị đơn vắng mặt lần thứ 02 tại phiên tòa không có lý do, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ; đồng thời anh K cũng không có yêu cầu phản tố; Chị D có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thùy D và anh Trịnh Văn K xây dựng hôn nhân đã đăng ký kết hôn ngày 29/9/2016 tại Ủy ban nhân dân xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận kết hôn số 87 ngày 29/9/2016 nên có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh K là hợp pháp.

[3] Đối với yêu cầu xin ly hôn của chị D, Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn giữa chị D và anh K phát sinh cách đây hơn 01 năm do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, nên vợ chồng thường xuyên cự cãi với nhau, từ đó vợ chồng chung sống không hạnh phúc. Thực tế chị và anh K đã ly thân hơn 01 năm nay và trong thời gian nay chị và anh K cũng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó cho thấy rằng quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh K đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Hơn nữa, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho anh K nhưng anh không đến tham dự và cũng không gửi văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị D. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D đối với anh K

[3] Về con chung: Không có

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị D xác định không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu xem xét giải quyết.

[6]Về án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình chị D phải chịu 300.000đồng. Đối với đề xuất của Viện kiểm sát là hoàn toàn phù hợp được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khon 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thùy D đối với anh Trịnh Văn K.

2. Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Thị Thùy D phải chịu 300.000 đồng, chị D đã tạm dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0010353 ngày 19/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa Bình chuyển thu án phí.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

402
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/ST-HNGĐ ngày 23/04/2021 về hôn nhân, con chung

Số hiệu:21/2021/ST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòa Bình - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về