Bản án 21/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 01 năm 2021, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 171/2020/HSST ngày 06 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 203/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2020/QĐST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:

Bùi Văn A (Tên gọi khác: /), giới tính: Nam, sinh năm 1993 tại tỉnh Quãng Ngãi; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đội 4, thôn T, xã H, huyện S tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: 220/2, Phường 8, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Không; họ và tên cha: Bùi T, họ và tên mẹ: Lê Thị Th; chưa có vợ con; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Ông Đỗ Anh D, sinh năm 1989; địa chỉ: Số 102 đường A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: 1134/4, Khu phố D, phường Đ, Quận 7, TP Hồ Chí Minh

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1980; địa chỉ: Số 163/24/82B đường E, Phường G, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

1 2. Hộ kinh doanh Đ; địa chỉ: Số 65 đường K, Phường L, quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện hộ kinh doanh: Bà Lê Trần Thanh T, sinh năm 1999; địa chỉ: 2/33 đường N, Phường O, quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1989; địa chỉ: Đội 4, thôn T, xã H, huyện S tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: 220/2, Phường 8, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn A và ông Đỗ Anh D cùng thuê phòng trọ số 2.02 ở chung với nhau tại địa chỉ: Số 1134/4 đường P, khu phố V, phường S, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 12/5/2020, Ân thức dậy thì D đã đi làm. Ân nhìn trên giường của D thấy 01 điện thoại Iphone XR, 01 điện thoại có chữ ZTE; 01 đồng hồ Apple Watch nên nảy sinh ý định trộm cắp. Ân lấy trộm 02 điện thoại và đồng hồ của ông D bỏ vào túi xách rồi đón xe ôm về nhà chị gái tại xã R, huyện Y. Đến 13 giờ 30 phút cùng ngày, D đi làm về phát hiện bị mất tài sản đã trình báo công an.

Sau khi lấy tài sản, A chụp hình đồng hồ Apple Watch seri 3 màu đen, đăng trên trang thương mại điện tử “chotot” để rao bán với giá 3.500.000 đồng và đem đồng hồ Apple Watch seri 3 màu đen đến tiệm cầm đồ Đ tại số 65 đường K, Phường L, quận M, Thành phố Hồ Chí Minh cầm với giá 2.600.000 đồng. Còn 02 điện thoại Ân cất giữ trong người.

Đến khoảng 11 giờ ngày 13/5/2020, ông D lên trang “chotot” thì phát hiện Ân rao bán đồng hồ hiệu Apple Watch seri 3 màu đen của mình nên hỏi mua. Ân hẹn D đến quán càfe tại số 27 đường T, Phường W, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. D đến quán cà phê phát hiện A nên trình báo Công an Phường W, quận Tân Bình.

Tại cơ quan Công an, A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội Trộm cắp tài sản của mình và giao nộp lại số tài sản đã chiếm đoạt của D.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 (một) điện thoại Iphone XR màu trắng bạc; 01 (một) điện thoại ZTE, 01 (một) đồng hồ Apple Watch seri 3 màu đen, là tài sản bị cáo chiếm đoạt.

+ 01 (một) xe gắn máy loại Future Neo, biển số: 76N6-0532, số máy:

3024666, số khung: 212504 do ông Lê Văn Đ đứng tên chủ sở hữu cho A mượn để sử dụng.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus 16BG màu bạc; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh dương thu giữa của Bùi Văn A.

Theo Bản Kết luận định giá số: 177/KL-HĐĐGTTHS ngày 22/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự Quận 7 kết luận: 01 (một) điện thoại Iphone XR màu trắng đục 64Gb, có giá trị 6.600.000 đồng; 01 (một) điện thoại hiệu Samsung Blade X3 T620 đặc điểm Chữ ZTE có giá trị 1.800.000 đồng.

Theo Bản Kết luận định giá số: 184/KL-HĐĐGTTHS ngày 22/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự Quận 7 kết luận: 01 (một) đồng hồ hiệu Apple Watch seri 3 - 38mm, đã qua sử dụng có giá trị 3.500.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 165/CT-VKSQ7 ngày 04/11/2020 Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7 đã truy tố bị cáo Bùi Văn A về tội Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Bùi Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng Khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 01 năm tù.

Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, quá trình điều tra không có yêu cầu gì, tại phiên tòa vắng mặt nên đề nghị không xét.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7 đã truy tố, không tranh luận, không tự bào chữa, thể hiện sự ăn năn hối hận, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các đương sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; căn cứ Bản Kết luận định giá số: 177/KL-HĐĐGTTHS ngày 22/6/2020 và Bản Kết luận định giá số: 184/KL-HĐĐGTTHS ngày 22/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 7, có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt số tài sản có tổng giá trị 11.900.000 (Mười một triệu chín trăm nghìn) đồng, gồm: 01 (một) điện thoại Iphone XR màu trắng đục 64Gb có giá trị 6.600.000 đồng; 01 (một) điện thoại hiệu Samsung Blade X3 T620 có chữ ZTE có giá trị 1.800.000 đồng, 01 (một) đồng hồ hiệu Apple Watch seri 3 - 38mm, đã qua sử dụng có giá trị 3.500.000 đồng. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, bị cáo nhận thức được trộm cắp tài sản là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam nên khi nhìn thấy tài sản của bị hại cố ý lấy đem bán lấy tiên tiêu xài cá nhân. Vì vậy cần phải xét xử nghiêm bị cáo, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo riêng và ngăn ngừa chung trong xã hội.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo đã trả lại số tiền cầm đồng hồ Apple Watch seri 3 là 2.600.000 đồng cho tiệm cầm đồ Đ. Người bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng các Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng, có ông nội là người có công với cách mạng, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không cần phải buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách cũng đã đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, quá trình điều tra không có yêu cầu gì, có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa nên không xét.

[6] Xử lý vật chứng:

+ 01 (một) điện thoại Iphone XR màu trắng bạc; 01 (một) điện thoại ZTE, 01 (một) đồng hồ Apple Watch seri 3 màu đen, là tài sản bị cáo chiếm đoạt, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7 đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ.

+ 01 (một) xe gắn máy loại Future Neo, biển số: 76N6-0532, số máy:3024666, số khung: 212504 do ông Lê Văn Đ đứng tên chủ sở hữu cho Ân mượn để đi công việc, ông Đầy không biết A dùng xe làm phương tiện phạm tội, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7 đã trả xe cho ông Đầy là có căn cứ.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus 16BG màu bạc, imei:352066067102199 là tài sản của bị cáo dùng làm phương tiện đăng tin rao bán tài sản trộm cắp nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, imei:355816095505608 là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

[7] Đối với ông Nguyễn Văn L đã cầm đồng hồ Apple Watch seri 3 màu đen của Bùi Văn A không biết tài sản do phạm tội mà có, Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý là có căn cứ.

[8] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; các Điểm b, i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn A 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án là ngày 28/01/2021.

Giao các bị cáo Bùi Văn A cho Ủy ban nhân dân Phường 8, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010.

Trong thời gian thử thách, bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự năm 2010.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, imei: 352066067102199.

Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, imei:355816095505608.

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 13 ngày 26/10/2020).

3. Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Bùi Văn A cho đến khi có quyết định thi hành án theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

5. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được được niêm yết theo quy định pháp luật.

Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về