Bản án 21/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 251/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Văn Trung H, sinh năm: 1998 tại tỉnh An Giang; địa chỉ thường trú: Ấp P, xã Phú T, huyện Phú T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Công nhân; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; trình độ học vấn: 06/12; con ông Văn Văn G và bà Nguyễn Thị Thanh T; tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 23/3/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 88/2018/HS-ST. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 06/5/2019.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát từ ngày 11/5/2020 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Hồ Thị Kim P, sinh năm: 1982 tại Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ thường trú: Số 21/55 Hồng L, phường 10, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; con ông Hồ Văn V (đã chết) và bà Đào Thị Đ; bị cáo có chồng là Phạm Tuấn N và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền sự: Không.

Tiền án: có 02 tiền án Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 301/HSST ngày 24/9/2004 của Tòa án nhân dân Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Hồ Thị Kim P 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, buộc bồi thường cho người bị hại 2.950.000 đồng, phải đóng án phí hình sự sơ thẩm 50.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm 147.500 đồng. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 05/4/2007, chấp hành xong án phí vào tháng 9/2010. Chưa bồi thường thiệt hại do chưa có đơn yêu cầu của đương sự.

Ngày 04/02/2010 bị Tòa án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2010/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 05/9/2019.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát từ ngày 11/5/2020 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ 05 phút ngày 11/5/2020, tại khu vực trước nhà trọ Tư Khải thuộc Khu phố 2, phường Tân Định, thị xã Bến Cát, Bình Dương, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy phối hợp Công an phường Tân Định kiểm tra hành chính Văn Trung H và Hồ Thị Kim P thì phát hiện trong lòng bàn tay trái của H có 01 gói hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng, H khai nhận đây là ma túy đá. Lực lượng tiến hành mời H và P về trụ sở làm việc.

Thu giữ:

- 01 gói ni lông hàn kín chứa tinh thể màu trắng:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng đen, biển số 67L1-374.20:

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1202 sim số 0367.250.791.

Lực lượng công an tiến hành khám xét khẩn cấp phòng số 06 Nhà trọ Tư Khải tại khu phố 2, phường Tân Định, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương của Hồ Thị Kim P phát hiện và thu giữ:

- 01 bình thủy tinh màu đen có gắn 01 đoạn ống nhựa và 01 đoạn ống thủy tinh:

 - 01 hộp màu đen hình vuông có chữ “Vòng Ngọc Việt”:

- 49 gói ni lông hàn kín chứa tinh thể màu trắng của Hồ Thị Kim P:

- 01 hộp nhựa màu xanh có chữ Tyrotab bên trong có 01 túi ni lông miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng của Hồ Thị Kim P:

- 60 đoạn ống thủy tinh dạng thẳng:

- 17 ống thủy tinh dạng mỏ vịt (nỏ):

- 01 đồ khò:

- 01 bình ga mini:

- 02 kéo bằng inox:

- 01 kìm gắp bằng inox.

 Kết quả xét nghiệm chất ma tuý ngày 11/5/2020: Văn Trung H, Hồ Thị Kim P dương tính với Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Văn Trung H và Hồ Thị Kim P khai nhận:

H và P là bạn bè sống cùng phòng trọ và đều là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Nguồn ma túy mà P, H có để sử dụng là mua nhiều lần của đối tượng Đ (không rõ nhân thân lai lịch) ở huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 01/5/2020, H điện thoại cho đối tượng K (không rõ nhân thân lai lịch) ở quận Bình Thạnh TP. Hồ Chí Minh là bạn bè quen biết ngoài xã hội để xuống chơi thì K đồng ý. Sau đó, H đón xe buýt đến quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh và được K đón về nhà nghỉ (không rõ tên, địa chỉ) ở quận Bình Thạnh để nghỉ ngơi. Tại đây, K lấy ma túy đá cho H cùng sử dụng, sau đó K cho H 80 đoạn ống thủy tinh dạng thẳng để chế tạo dụng cụ sử dụng ma túy. Sau đó, H đem 80 đoạn ống thủy tinh về phòng trọ cất giấu.

Đến ngày 04/5/2020, H lấy 20 ống thủy tinh của K cho, đầu khò, bình ga mini, kéo và kìm gắp bằng inox để chuẩn bị chế tạo dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy (nỏ). H dùng đầu khò gắn vào bình ga mini đốt nóng ống thủy tinh dùng miệng thổi thành hình cầu ở một đầu ống và đốt nóng ở vị trí giữa ống dùng kéo và kìm gắp bằng inox để uốn cong để tạo thành dụng cụ sử dụng ma túy (nỏ). Trong quá trình thực hiện, H làm hư 03 ống thủy tinh, làm thành công được 17 dụng cụ sử dụng ma túy (nỏ) và H cất 17 (mười bảy) dụng cụ sử dụng ma túy (nỏ) cùng 60 đoạn ống thủy tinh dạng thẳng vào trong thùng xốp để trên gác trong phòng số 6, nhà trọ Tư Khải để dành sử dụng dần và tiếp tục chế tạo nỏ.

Khoảng 18 giờ ngày 10/5/2020, P điện thoại cho Đ hỏi mua 3.200.000 đồng ma túy đá để sử dụng thì được Đ đồng ý và hẹn mua bán tại khu vực Chợ Chiều thuộc huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh. P kêu H điều khiển xe môtô hiệu Sirius màu trắng đen biển số 67L1 374.20 của P chở P đến điểm hẹn, gặp và mua được 01 (một) túi ni lông miệng kéo dính chứa ma túy đá bỏ trong vỏ gói thuốc lá hiệu JET. P kêu H chở về lại phòng để cất giấu. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, H và P lấy túi ni lông ma túy đã mua đem phân chia nhỏ thành 52 gói ni lông hàn kín, 01 túi ni lông miệng kéo dính rồi H bỏ tất cả các gói, túi ni lông chứa ma túy đá vào trong hộp đen hình vuông có chữ “Vòng Ngọc Việt” để dưới nền nhà, sát vách tường bên phải, hướng cửa nhìn vào. Sau đó, H và P đã sử dụng hết 02 gói ma túy đá, 50 gói ni lông hàn kín, 01 (một) túi ni lông miệng kéo dính còn lại thì H và P vẫn bỏ trong hộp đen hình vuông có chữ “Vòng Ngọc Việt” để dưới nền nhà.

Khoảng 11 giờ ngày 11/5/2020, H mở hộp đen hình vuông có chữ “Vòng Ngọc Việt” lấy 01 gói ma túy đá cầm trong lòng bàn tay trái và điều khiển xe môtô biển số 67L1 374.20 chở P đi tìm nơi sử dụng ma túy. Khi H điểu khiển xe mô tô nói trên chở P vừa ra đến khu vực trước nhà trọ Tư Khải, khu phố 2, phường Tân Định thì bị lực lượng Công an kiểm tra hành chính, phát hiện bắt giữ.

Theo Kết luận giám định số 285/MT-PC09 ngày 18/5/2020:

Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0692 gam, loại Methamphetamine.

 Mẫu vật sau giám định được niêm phong: 01 bì thư số 285/MT-PC09 chứa 0,0323 gam Methamphetamine.

Theo Kết luận giám định số 286/MT-PC09 ngày 18/5/2020:

Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng:

2,3693 gam (M1), 0,8695 gam (M2), 1,7494 gam (M3) loại Methamphetamine.

Mẫu vật sau giám định được niêm phong: 01 bì thư số 285/MT-PC09 chứa 2,1152 gam (M1), 0,8104 gam (M2), 1,6293 gam (M3) loại Methamphetamine.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng đen, biển số 67L1- 374.20 do ông Cao Văn K đứng tên chủ sở hữu. Năm 2015, ông K đã bán lại xe mô tô này cho người tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) nhưng không làm thủ tục sang tên. Hồ Thị Kim P khai mua xe mô tô của một người bạn tên M (không rõ nhân thân, lai lịch) vào tháng 3/2020 với giá 5.000.000 đồng.

Hồ Thị Kim P biết Văn Trung H sản xuất trái phép dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy mà không tố giác chưa đủ yếu tố cấu thành tội Không tố giác tội phạm nên không tiến hành xử lý.

Đối với đối tượng Đ và K không rõ nhân thân, lai lịch. Khi nào Cơ quan điều tra tiến hành xác minh được sẽ làm việc, xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 259/CT-VKSBC ngày 18/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Văn Trung H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và tội “Sản xuất dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” điểm b khoản 1 Điều 254 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Hồ Thị Kim P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g và điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Văn Trung H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 và tội “Sản xuất dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 254 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Hồ Thị Kim P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Văn Trung H từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 254; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: xử phạt bị cáo Văn Trung H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội: Sản xuất dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy.

 - Áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Hồ Thị Kim P từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bình thủy tinh màu đen có gắn 01 đoạn ống nhựa và 01 đoạn ống thủy tinh; 01 hộp nhựa màu xanh có chữ Tyrotab; 60 đoạn ống thủy tinh dạng thẳng; 17 ống thủy tinh dạng mỏ vịt (nỏ); 01 đồ khò; 01 bình ga mini; 02 kéo bằng inox;01 kìm gắp bằng inox; 01 bì thư số 285/PC09 chứa 0,0323 gam Methamphetamine; 01 bì thư số 286/MT-PC09 chứa 2,1152 gam (M1), 0,8104 gam (M2), 1,6293 gam (M3) loại Methamphetamine.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng đen, biển số 67L1-374.20.

Bị cáo Văn Trung H và Hồ Thị Kim P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

 Trong quá điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, nội dung bản Cáo trạng số 259/CT-VKSBC ngày 18/11/2020 và Kết luận giám định số số 285/MT-PC09 và số 286/MT-PC09 cùng ngày 18/5/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Tại phiên tòa, các bị cáo không đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận gì để đối đáp với Kiểm sát viên về nội dung luận tội của Kiểm sát viên.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Tại phiên toà, các bị cáo Văn Trung H và Hồ Thị Kim P đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ thu giữ trong vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:

Bị cáo H và bị cáo P có hành cất giấu 0,0692 gam ma túy loại Methamphetamine trong lòng bàn tay trái của H nhằm mục đích sử dụng chung bị bắt quả tang vào ngày 11/5/2020. Ngoài ra các bị cáo còn cất giấu, tàng trữ 4,3654 gam ma túy loại Methamphetamine tại nơi các bị cáo sinh sống là phòng số 06 Nhà trọ Tư Khải thuộc Khu phố 2, phường Tân Định, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Theo Kết luận giám định số 285/MT-PC09 và số 286/MT-PC09 cùng ngày 18/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Các mẫu tinh thể giám định đều là ma túy loại Methamphetamine có tổng khối lượng là 5,0574 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của nhà nước. Như vậy hành vi của bị cáo H và P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo P đã có tiền án về tội rất nghiêm trọng chưa được xóa án tích nay lại phạm tội rất nghiêm trọng thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo H đã dùng ống thủy tinh chế tạo ra 17 ống thủy tinh dạng mỏ vịt (nỏ) là dụng cụ dùng vào việc sử dụng ma túy loại Methamphetamine và cất giấu tại nơi ở của bị cáo và bị cáo P là phòng số 06 Nhà trọ Tư Khải thuộc Khu phố 2, phường Tân Định, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Sản xuất dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 254 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát truy tố bị cáo H “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 và tội “Sản xuất dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 254 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo H và P thực hiện và hành vi sản xuất dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy do bị cáo H thực hiện đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý đồng thời còn xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Do đó cần có một hình phạt thật nghiêm tương xứng với hành vi của từng bị cáo nhằm cải tạo giáo dục các bị cáo thành người tốt và góp phần răn đe ngăn ngừa chung.

Bị cáo P có 02 tiền án chấp hành xong hình phạt chưa bao lâu lại tiếp tục phạm tội. Do vậy cần có mức án thật nghiêm đối với bị cáo nhằm cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội.

Bị cáo H có tiền án chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Do vậy cũng cần có hình phạt nghiêm đối với bị cáo, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo H phạm tội với tình tiết tăng nặng là tái phạm.

Bị cáo Hồ Thị Kim P biết Văn Trung H sản xuất dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy mà không tố giác nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội Không tố giác tội phạm nên cơ quan Cảnh sát điều tra không khởi tố là phù hợp.

[5] Biện pháp tư pháp:

Cần tịch thu tiêu hủy đối với 01 bì thư số 285/MT-PC09 chứa 0,0323 gam Methamphetamine; 01 bì thư số 285/MT-PC09 chứa 2,1152 gam (M1), 0,8104 gam (M2), 1,6293 gam (M3) loại Methamphetamine Cần tịch thu tiêu hủy đối với 01 bình thủy tinh màu đen có gắn 01 đoạn ống nhựa và 01 đoạn ống thủy tinh; 01 hộp nhựa màu xanh có chữ Tyrotab; 60 đoạn ống thủy tinh dạng thẳng; 17 ống thủy tinh dạng mỏ vịt (nỏ); 01 đồ khò; 01 bình ga mini; 02 kéo bằng inox; 01 kìm gắp bằng inox là vật dụng bị cáo Hiếu sử dụng vào việc sản xuất dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng đen, biển số 67L1- 374.20, xe do ông Cao Văn K đứng tên chủ sở hữu. Năm 2015, ông K đã bán lại xe mô tô này cho người tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) nhưng không làm thủ tục sang tên. Hồ Thị Kim P khai mua xe mô tô của một người bạn tên M (không rõ nhân thân, lai lịch). Ông T xác định không còn quyền sở hữu đối với xe trên. Bị cáo P sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy, cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước [6] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Văn Trung H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Văn Trung H 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 254; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Văn Trung H phạm tội: “Sản xuất dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Văn Trung H 02 (hai) năm tù.

Căn cứ vào Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Buộc bị cáo Văn Trung H phải chấp hành hình phạt chung của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Sản xuất dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” là 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 11/5/2020.

2. Căn cứ điểm g, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Hồ Thị Kim P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

 Xử phạt bị cáo Hồ Thị Kim P 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/5/2020 3. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

* Tịch thu tiêu hủy:

01 bì thư số 285/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa 0,0323 gam Methamphetamine (theo kết luận giám định số 285/MT-PC09 ngày 18/5/2020):

01 bì thư số 286/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa M1= 2,1152 gam, M2= 0,8104 gam, M3=1,6293 gam loại Methamphetamine (theo kết luận giám định số 286/MT-PC09 ngày 18/5/2020); 01 bình thủy tinh màu đen có gắn 01 đoạn ống nhựa và 01 đoạn ống thủy tinh; 01 hộp nhựa màu xanh có chữ Tyrotab; 60 đoạn ống thủy tinh dạng thẳng; 17 ống thủy tinh dạng mỏ vịt (Nỏ); 01 đồ khò; 01 bình ga mini; 02 kéo bằng inox; 01 kìm gắp bằng inox.

* Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng đen, biển số 67L1-374.20 số máy HC12E-5138326.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Văn Trung H và Hồ Thị Kim P mỗi người phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Các bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về