TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 21/2021/HS-PT NGÀY 08/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 08 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 205/2020/TLPT-HS, ngày 17-12-2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn V, bị cáo Lê Thị L do kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn V, bị cáo Lê Thị L đối với bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HS-ST; ngày 04- 11-2020 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
Bị cáo kháng cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Văn V (tên gọi khác: V Mập); sinh năm 1980 tại tỉnh An Giang; nơi ĐKNKTT và cư trú: Thôn h, xã LB, huyện BL, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; nghề nghiệp: Làm vườn; trình độ học vấn: Không biết chữ; con ông: Nguyễn Văn B (đã chết); con bà: Nguyễn Thị X (đã chết); gia đình có 13 anh chị em, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình; vợ: Nguyễn Thị Thu , sinh năm 1983; hiện cư trú tại xã LB huyện BL, tỉnh Lâm Đồng; con: Có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2013;
Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án số 19/2015/HSST ngày 01-6-2015 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xử phạt bị cáo 15.000.000đ về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự; tại Bản án số 07/2016/HSST ngày 09-3-2016 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông xử phạt bị cáo số tiền 15.000.000đ về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự; bị cáo đã chấp hành án xong và được xóa án tích; bị bắt tạm giữ từ ngày 12-02-2020 đến ngày 18-02-2020 được cho bảo lĩnh. Có mặt.
2. Họ và tên: Lê Thị L; sinh năm 1971 tại tỉnh Nam Định; nơi ĐKNKTT và cư trú: Thôn m, xã LB, huyện BL, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Làm vườn; trình độ học vấn: 4/12; con ông: Lê Văn P (đã chết); con bà: Tạ Thị ; hiện cư trú tại xã HN, huyện DL, tỉnh Lâm Đồng; gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ năm trong gia đình; chồng: Bùi Văn D; hiện cư trú tại xã LB, huyện BL, tỉnh Lâm Đồng; có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1999;
Tiền án: Tại Bản án số 19/2015/HSST ngày 01-6-2015 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xử phạt bị cáo số tiền 15.000.000đ về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự; Tại Bản án số 02/2019/HSST ngày 23-01-2019 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; ngày 22-12-2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, tính đến thời điểm phạm tội mới bị cáo chưa được xóa án tích; Tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 28-4-2020 tại xã Lộc Bảo, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
Trong vụ án này còn có các bị cáo Lê Thị Kim T, Vũ Quốc V, Lê Văn Đ không kháng cáo; không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 12-02-2020, Lê Thị L cùng với Nguyễn Văn V, Vũ Quốc V, Lê Văn Đ, Lê Thị V, Lê Văn H, đến nhà Lê Thị Kim T ở thôn m, xã LB, huyện BL, tỉnh Lâm Đồng để đánh bạc, hình thức đánh bài xì lát, mức đặt từ 50.000đ đến 100.000đ. Khi đến nhà T thì L mang theo 200.000đ, V mang theo 400.000đ, mang theo 150.000đ. Đánh bạc đến 14 giờ cùng ngày thì L, H, V thua hết số tiền mang theo nên nghỉ không chơi nữa. Sau khi L, H, V nghỉ thì Nguyễn Văn V, Vũ Quốc V, Lê Văn Đ và Lê Thị Kim T rủ nhau đánh bài Liêng tố, quy định mức tố thấp nhất là 50.000đ, mức tố cao nhất là 500.000đ, người có bài điểm cao nhất sẽ thắng. Đến 15 giờ ngày 12-02-2020, khi Nguyễn Văn V, Vũ Quốc V, Lê Văn Đ và Lê Thị Kim T đang đánh bạc thì bị Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm phát hiện bắt quả tang, thu giữ đồ vật tài liệu gồm:
- Thu giữ số tiền 17.740.000đ trên chiếu bạc và xung quanh vị trí các đối tượng ngồi đánh bạc; 01 mền (chăn) hoa văn màu hồng, kích thước 2,2 x l,4m được trải ra mặt bàn gỗ để đánh bạc; 52 lá bài tây và 04 bộ bài tây chưa mở hộp đựng bài.
- Thu giữ trên người Lê Văn Đ số tiền 11.770.000đ, thu trên người Nguyễn Văn V số tiền 14.600.000đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia imeil 33581009811893/1; thu trên người Vũ Quốc V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia imeil 35060142940.
Quá trình điều tra, xác định số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc cụ thể như sau:
1. Lê Thị Kim T: Sử dụng số tiền 2.700.000đ vào việc đánh bạc, quá trình đánh bạc thắng được 650.000đ. Tại thời điểm bắt quả tang thu giữ tại vị trí của T số tiền 3.350.000đ.
2. Nguyễn Văn V: Mang theo số tiền hơn 16.000.000đ để đánh bạc, đánh nhiều ván, không rõ thắng thua bao nhiêu. Tại thời điểm bắt quả tang thu giữ số tiền của V là 17.950.000đ (thu giữ gần vị trí của Việt số tiền 3.350.000đ, thu trên người 14.600.000đ).
3. Vũ Quốc V: Mang theo số tiền 13.000.000đ để đánh bạc, tham gia đánh nhiều ván, bị thua số tiền 2.410.000đ. Tại thời điểm bắt quả tang thu giữ của số tiền 10.590.000đ (thu giữ tại vị trí trước mặt Việt số tiền 3.050.000đ, thu giữ gần vị trí của Việt số tiền 7.540.000đ).
4. Lê Văn Đ: Mang theo số tiền 12.270.000đ nhưng chỉ sử dụng số tiền 500.000đ vào việc đánh bạc, số tiền còn lại Đ dùng để trả nợ không sử dụng vào việc đánh bạc. Tại thời điểm bị bắt quả tang thu giữ số tiền trên chiếu bạc trước vị trí Đ ngồi số tiền 50.000đ.
5. Lê Thị Kim L: Mang theo 200.000đ để đánh bạc, hình thức đánh bài xì lát, mức đặt từ 50.000đ đến 100.000đ, đánh bạc đến 14 giờ cùng ngày thì L thua hết số tiền mang theo nên nghỉ không chơi nữa.
Tổng số tiền các bị cáo Lê Thị Kim T, Nguyễn Văn V, Vũ Quốc V, Lê Văn Đ dùng để đánh bạc được xác định là 32.340.000đ.
Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKS-BL ngày 03-9-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng truy tố các bị cáo Lê Thị Kim T, Vũ Quốc V, Nguyễn Văn V, Lê Văn Đ, Lê Thị L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự 2015.
Tại bản án số 50/2020/HS-ST; ngày 04-11-2020 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng:
Tuyên bố: Các bị cáo Lê Thị Kim T, Vũ Quốc V, Nguyễn Văn V, Lê Văn Đ, Lê Thị L phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38.
Riêng bị cáo T áp dụng thêm điểm i khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lê Thị Kim 09 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án; được trừ thời giam tạm giữ, tạm giam từ ngày 12-02-2020 đến ngày 18-02-2020; từ ngày 08-7-2020 đến ngày 13-8-2020; phạt bổ sung số tiền 20.000.000đ sung Ngân sách nhà nước.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 09 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án; được trừ thời giam tạm giữ, tạm giam từ ngày 12-02-2020 đến ngày 18-02-2020; phạt bổ sung số tiền 20.000.000đ sung Ngân sách nhà nước.
Xử phạt bị cáo Lê Văn Đ 09 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án; được trừ thời giam tạm giữ, tạm giam từ ngày 12- 02-2020 đến ngày 18-02-2020; phạt bổ sung số tiền 10.000.000đ sung Ngân sách nhà nước.
Xử phạt bị cáo Lê Thị L 09 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án; phạt bổ sung số tiền 10.000.000đ sung Ngân sách nhà nước.
Áp dụng khoản 1 khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Vũ Quốc V 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày 04-11-2020; phạt bổ sung số tiền 20.000.000đ sung Ngân sách nhà nước.
Bản án còn tuyên xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 11-11-2020 bị cáo Nguyễn Văn V kháng cáo xin hưởng án treo;
ngày 13-11-2020 bị cáo Lê Thị L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đến ngày 18-01-2021 bị cáo Lê Thị L có đơn xin tự nguyện rút toàn bộ nội dung đã kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn V thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã xét xử; bị cáo giữ nguyên kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết nào mới.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Lê Thị L vì bị cáo Lê Thị L có đơn xin tự nguyện rút toàn bộ nội dung đã kháng cáo; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn ; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Căn cứ lời khai của các bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định:
Vì động cơ tư lợi cá nhân, Lê Thị L cùng với Nguyễn Văn V, Vũ Quốc V, Lê Văn Đ, Lê Thị V, Lê Văn H đến nhà Lê Thị Kim T ở thôn m, xã LB, huyện BL, tỉnh Lâm Đồng để đánh bạc, hình thức đánh bài xì lát, mức đặt từ 50.000đ đến 100.000đ. Khi đến nhà T thì L mang theo 200.000đ, Vân mang theo 400.000đ, H mang theo 150.000đ, đánh bạc từ 13 giờ 30 phút ngày 12-02-2020 đến 14 giờ cùng ngày thì L, H, thua hết số tiền mang theo nên nghỉ không chơi nữa. Sau đó Nguyễn Văn V, Vũ Quốc V, Lê Văn Đ và Lê Thị Kim T rủ nhau đánh bài Liêng tố, quy định mức tố thấp nhất là 50.000đ, mức tố cao nhất là 500.000đ, người có bài điểm cao nhất sẽ thắng. Đến 15 giờ ngày 12-02-2020, khi Nguyễn Văn V, Vũ Quốc V, Lê Văn Đ và Lê Thị Kim T đang đánh bạc thì bị Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm phát hiện bắt quả tang. Tổng số tiền các bị cáo Lê Thị Kim T, Nguyễn Văn V, Vũ Quốc V, Lê Văn Đ, Lê Thị L dùng để đánh bạc được xác định là 32.340.000đ.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo gửi trong hạn luật định và đúng quy định nên được xem xét.
Hành vi đánh bạc trái phép có tính chất sát phạt nhằm thu lợi bất chính cho bản thân của bị cáo là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác; gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép là vi phạm pháp luật thế nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật và thực hiện hành vi.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn V, bị cáo Lê Thị phạm tội “Đánh bạc”; áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 09 tháng tù, phạt bổ sung số tiền 20.000.000đ sung Ngân sách nhà nước; xử phạt bị cáo Lê Thị 09 tháng tù, phạt bổ sung số tiền 10.000.000đ sung Ngân sách nhà nước là đúng người, đúng tội.
Bị cáo Nguyễn Văn V giữ nguyên kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên kháng cáo của bị cáo là không có cơ sở để xem xét vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn V; đối với kháng cáo của bị cáo Lê Thị L vì bị cáo Lê Thị L có đơn xin tự nguyện rút toàn bộ nội dung đã kháng cáo nên cần đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Thị L như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa hôm nay là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.
[3] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật; bị cáo Lê Thị L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ Điều 348 của Bộ luật Tố tụng hình sự; đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Lê Thị L.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn V; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 09 tháng tù; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án; được trừ thời giam tạm giữ, tạm giam từ ngày 12-02-2020 đến ngày 18-02-2020 vào thời gian chấp hành án; phạt bổ sung số tiền 20.000.000đ sung Ngân sách nhà nước.
Xử phạt bị cáo Lê Thị L 09 tháng tù; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án; phạt bổ sung số tiền 10.000.000đ sung Ngân sách nhà nước.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn V phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo Lê Thị L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 21/2021/HS-PT ngày 08/03/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 21/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về