Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 05/04/2021 về không công nhận vợ chồng giữa chị H và anh T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/04/2021 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG GIỮA CHỊ H VÀ ANH T

Ngày 05 tháng 04 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa xét xử công khai vụ án thụ lý số 519/2020/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 về việc: “Không công nhận vợ chồng giữa chị H và anh T” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021/QĐXX-ST ngày 07 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đặng Thị H, sinh năm 1984 (có mặt) Địa chỉ: Thôn V, xã S, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang

Bị đơn: Anh Bàn Văn T, sinh năm 1977 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn V, xã S, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, lời khai tiếp theo và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đặng Thị H trình bày: Chị và anh Bàn Văn T chung sống cùng nhau từ năm 2000. Anh chị chung sống cùng nhau H toàn tự nguyện, không ai ép buộc, đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn. Chị và anh T chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2009 thì nẩy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do hai bên bất đồng về quan điểm sống. Đến tháng 7/2020, anh chị chấm dứt mọi quan hệ tình cảm cũng như kinh tế. Nay chị đề nghị Tòa án không công nhận chị và anh T là vợ chồng.

Về con chung: Quá trình chung sống cùng nhau, chị và anh T sinh được 02 con chung là Bàn Thu A, sinh năm 2000; Bàn Thị B, sinh năm 2004. Nay cháu A đã trưởng thành, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Cháu B chưa đủ 18 tuổi, chị có nguyện vọng được nuôi cháu. Chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung đối với tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai, bị đơn anh Bàn Văn T trình bày: Anh và chị H về chung sống cùng nhau từ năm 2000. Anh chị không tổ chức đám cưới, không đăng ký kết hôn. Anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì mâu thuẫn trầm trọng. Nay chị H yêu cầu Tòa án không công nhận chị và anh là vợ chồng, anh không đồng ý.

Về con chung: Anh đồng ý để chị T nuôi con là Bàn Thị B, sinh năm 2004.

Đại diện viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận chị Đặng Thị H và anh Bàn Văn T là vợ chồng. Về con chung: Giao con là Bàn Thị B cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung đối với tài sản không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự. Tại phiên tòa, anh Bàn Văn T vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

[2]. Chị Đặng Thị H và anh Bàn Văn T chung sống cùng nhau từ năm 2000, trên cơ sở tự nguyện, nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, nên đây là hôn nhân không hợp pháp. Nay chị H đề nghị Tòa án không công nhận chị và anh T là vợ chồng là có căn cứ, quy định tại Điều 14, Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận.

[3]. Về con chung: Quá trình chung sống cùng nhau, chị H và anh T sinh được 02 con chung là Bàn Thu A, sinh năm 2000 và Bàn Thị B, sinh năm 2004. Cháu A đã trưởng thành nên không đặt ra xem xét; cháu B chưa đủ 18 tuổi, chị H đề nghị được nuôi. Cháu B có nguyện vọng được ở với chị H, anh T đồng ý. Vì vậy, cần giao cháu Bàn Thị B cho chị Đặng Thị H nuôi dưỡng. Cấp dưỡng nuôi con, các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[4]. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung đối với tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[6]. Về án phí: Chị Đặng Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Căn cứ vào Điều 9, Điều 14, Điều 15, Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 24, khoản 1 Điều 25, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Đặng Thị H và anh Bàn Văn T là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cho chị Đặng Thị H nuôi con là Bàn Thị B, sinh năm 2004. Anh Bàn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Việc thăm nom con không được để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Án phí: Chị Đặng Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0005138 ngày 08/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho đương sự có mặt biết, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 05/04/2021 về không công nhận vợ chồng giữa chị H và anh T

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:05/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về