Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 03 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục chung vụ án thụ lý số 529/2020/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020, về việc “Tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn Pên tòa số 03/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20/01/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Lệ H, sinh năm 1975 (Có mặt) Địa chỉ: Số 313 đường Q, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Thái Văn P, sinh năm 1973 (Vắng mặt) HKTT: Số 313 đường Q, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở hiện nay: Số 224/4 đường Q, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 06/11/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại Pên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Trương Lệ H trình bày: Tôi và anh P tự tìm hiểu nhau rồi tổ chức lễ cưới tháng 05 năm 1995, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Vĩnh Lạc, thành phố G, tỉnh Kiên Giang theo quy định của pháp luật và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 44 ngày 11/5/1995. Sau khi kết hôn vợ chồng sống bên gia đình chồng tại địa chỉ số 313 đường Q, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang. Đến tháng 10/2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn rồi anh P dọn ra ngoài sinh sống và ly thân cho đến nay.

Nguyên nhân xin ly hôn: Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nhỏ, đến tháng 10/2020 thì phát sinh mâu thuẫn gây gắt thường xuyên cự cải nhau. Nguyên nhân là do anh P không lo làm ăn. Ngoài ra, anh P còn ghen tuông vô cớ, có lần tôi đang bàn chuyện làm ăn ở quán càfe thì anh P vào đánh tôi. Nay xét thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, nên chị H yêu cầu xin ly hôn với anh P. Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn thì chị H yêu cầu giải quyết về con chung, tài sản chung và nợ chung như sau:

Về con chung: Chị Trương Lệ H xác định có 02 người con chung tên Thái Thị Mỹ T, sinh ngày 03/7/1996 và Thái Thị Mỹ N, sinh ngày 12/12/2000 (Các con đã trưởng thành và có đủ năng lực hành vi dân sự), không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung; nợ chung: Chị Trương Lệ H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị H xác định không còn tình cảm yêu thương với anh P nữa và yêu cầu được ly hôn với anh P.

Về con chung: Các con đã trưởng thành. Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung; nợ chung: Chị H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn anh Thái Văn P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, không có yêu cầu phản tố và không có văn bản trình bày ý kiến về việc khởi kiện của nguyên đơn nên Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại Pên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại Pên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Trương Lệ H khởi kiện xin ly hôn và yêu cầu nuôi con chung với bị đơn anh Thái Văn P và anh P là bị đơn có nơi cư trú tại thành phố G, tỉnh Kiên Giang nên Tòa án xác định quan hệ pháp luật của vụ án là "Tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung"; theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố G.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Thái Văn P không có ý kiến trình bày về đơn khởi kiện xin ly hôn của chị H tại Tòa án. Tuy nhiên, Toà án đã làm đầy đủ thủ tục theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự như: Giao thông báo thụ lý vụ án và tống đạt các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án xét xử; Quyết định hoãn phiên toà hợp lệ, nhưng anh P cố tình tránh mặt không đến Toà án. Tại phiên tòa, nguyên đơn chị H yêu cầu xét xử vắng mặt bị đơn anh P theo quy định pháp luật. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định xét xử vắng mặt anh P.

[3] Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Trương Lệ H và anh Thái Văn P được xác lập trên cơ sở tự nguyện; Có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, đã được UBND phường Vĩnh Lạc, thành phố G, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 44, ngày 10/5/1995 nên đây là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật công nhận.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh P, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình chung sống vợ chồng chị H và anh P không còn yêu thương, tin tưởng, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau để xây dựng mái ấm gia đình bền vững, hạnh phúc. Bởi lẻ, chị H xác nhận thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, thời gian sau bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nhỏ đến tháng 10/2020 phát sinh mâu thuẫn gây gắt. Nguyên nhân là do anh P không lo làm ăn chăm sóc gia đình, ngoài ra anh P còn ghen tuông vô cớ, nhiều lần chửi chị H và có lần đánh chị H. Mâu thuẫn kéo dài vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau và đã sống ly thân với nhau từ tháng 10 năm 2020 đến nay và trong thời gian chị H, anh P sống ly thân nhưng vẫn không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Căn cứ khoản 2 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về nghĩa vụ chứng minh của đương sự “Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó”. Anh P đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, anh P không có sự phản đối nào đối với yêu cầu của chị H cũng như chứng cứ do chị H cung cấp.

Từ đó cho thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh P đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh P là hoàn toàn có căn cứ phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Từ những cơ sở nhận định trên, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh P.

[5] Về quan hệ con chung: Chị H xác định vợ chồng chung sống có 02 người con chung tên Thái Thị Mỹ T, sinh ngày 03/7/1996 và Thái Thị Mỹ N, sinh ngày 12/12/2000 (Các con đã trưởng thành và có đủ năng lực hành vi dân sự), không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trương Lệ H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh P không có ý kiến trình bày tại Tòa án về vấn đề con chung, tài sản chung, nợ chung; nếu sau này anh P có tranh chấp về các vấn đề trên thì có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.

[8] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Trương Lệ H là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự:

Căn cứ vào các Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57; 58; 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Căn cứ vào Điều 25, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trương Lệ H được ly hôn với anh Thái Văn P.

2. Về con chung: Chị H xác định vợ chồng chung sống có 02 người con chung tên Thái Thị Mỹ T, sinh ngày 03/7/1996 và Thái Thị Mỹ N, sinh ngày 12/12/2000 (Các con đã trưởng thành và có đủ năng lực hành vi dân sự), không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trương Lệ H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí : Buộc chị Trương Lệ H phải nộp án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), chị H được khấu trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008645 ngày 11/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 03/02/2021), đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 03/02/2021 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về