Bản án 21/2021/DS-ST ngày 22/04/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

 BẢN ÁN 21/2021/DS-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 369/2020/TLST-DS ngày 03 tháng 11 năm 2020 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐXX-ST ngày 02 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/QĐST-DS ngày 29 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1967; trú tại: Ấp L, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp: Ông Lê Minh L, sinh năm 1984; địa chỉ thường trú: Ấp Q, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang. Là đại diện theo ủy quyền theo Văn bản ủy quyền ngày 26/10/2020. Vắng mặt theo Đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Bị đơn:

1. Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1977; trú tại: Ấp R, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

2. Bà Võ Thị Hồng H, sinh năm 1990; trú tại: Ấp R, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 26/10/2020, lời khai của của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Lê Minh L trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa:

Ông N và ông T, bà H có mối quan hệ quen biết. Ngày 30/10/2019, vợ chồng T và H có đến nhà hỏi mượn ông N số tiền 150.000.000 đồng. Thời hạn vay là 05 tháng (tức ngày 30/3/2020) sẽ trả. Tiếp đến ngày 09/11/20219, vợ chồng T, H có mượn thêm 20.000.000 đồng hẹn đến ngày 09/02/2020 sẽ trả. Tổng số tiền vợ chồng ông T, bà H mượn của ông N là 170.000.000 đồng. Mục đích làm vốn kinh doanh. Lãi suất thỏa thuận 3%/tháng.

Tuy nhiên, sau khi mượn tiền cho đến nay, vợ chồng ông T và bà H không trả tiền gốc và tiền lãi như đã thỏa thuận. Ông N đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông T và bà H trả tiền nhưng vợ chồng ông T và bà H cố tình lẫn tránh không trả cho ông N.

Nay, ông Nguyễn Văn N yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Thanh T và bà Võ Thị Hồng H phải thanh toán số tiền nợ gốc là 170.000.000 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán kể từ ngày vay cho đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm (với lãi suất 1,66%/tháng).

Ngày 29 tháng 3 năm 2021, ông L người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có Đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Ngoài ra, trong đơn còn có nội dung xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu khởi kiện. Nay chỉ yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Thanh T và bà Võ Thị Hồng H phải thanh toán số tiền nợ gốc là 170.000.000 đồng. Ông N không yêu cầu ông T và bà H trả tiền lãi do chậm thanh toán.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh T và bà Võ Thị Hồng H: Đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên hòa giải đoàn tụ, tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, ông T và bà H không chấp hành theo giấy triệu tập, vắng mặt không có lý do. Ông T và bà H không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông N và không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào cho Tòa án.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Phía bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền vay là 170.000.000 đồng và tiền lãi do chậm thanh toán nên quan hệ pháp luật trong vụ án này được xác định là: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Nguyễn Thanh T và bà Võ Thị Hồng H có hộ khẩu thường trú tại địa chỉ: Ấp R, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương nên theo quy định điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

[1.3] Về việc có mặt, vắng mặt của đương sự:

Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là đúng quy định pháp luật.

Bị đơn đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên hòa giải đoàn tụ và tham gia phiên tòa nhưng bị đơn đều vắng mặt. Việc vắng mặt của bị đơn không vì lý do bất khả kháng. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

Theo Biên bản xác minh ngày 06/11/2020 tại Công an xã An Tây, thị xã Bến Cát có nội dung ông T và bà H cùng gia đình đã bỏ đi khỏi địa phương đã lâu mà không báo chính quyền địa phương. Khi đi ông T và bà H không thông báo với chính quyền địa phương do đó chính quyền địa phương không biết ông T và bà H ở đâu. Điều đó chứng tỏ bị đơn giấu địa chỉ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/7/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.

Quá trình tố tụng, Tòa án đã tiến hành tống đạt các thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, triệu tập bị đơn đến làm việc để bị đơn thực hiện quyền nghĩa vụ của mình và có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuy nhiên, bị đơn cố tình không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Như vậy, bị đơn đã từ bỏ quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định tại các Điều 70 và 72 Bộ luật Tố tụng dân sự Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền vay là 170.000.000 đồng.

 Chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là Giấy mượn tiền đề ngày 30/10/2019 thể hiện bị đơn có vay của nguyên đơn số tiền 150.000.000 đồng, thời hạn vay tiền là đến ngày 30/3/2020, lãi suất 3%/tháng. Và Giấy mượn tiền đề ngày 09/11/2019 thể hiện bị đơn có vay của nguyên đơn số tiền 20.000.000 đồng, thời hạn vay tiền là đến ngày 09/02/2020, lãi suất 3%/tháng. Tuy nhiên, bị đơn không có văn bản trình bày ý kiến, cũng như không có cung cấp tài liệu chứng cứ gì cho Tòa án. Như vậy, chứng cứ nguyên đơn cung cấp là Giấy mượn tiền đề các ngày 30/10/2019 và 09/11/2019 có giá trị chứng minh. Như vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.

Đối với việc nguyên đơn rút lại yêu cầu bị đơn trả tiền lãi do chậm thanh toán. Xét, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Hoàn trả cho nguyên đơn tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 70, 72, 147, 161, 217, 227, 228, 266, 267, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 357, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn N đối với bị đơn ông Nguyễn Thanh T và bà Võ Thị Hồng H về việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Buộc ông Nguyễn Thanh T và bà Võ Thị Hồng H có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Văn N số tiền 170.000.000 đồng (một trăm bảy mươi triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, nếu người phải thi hành án chậm thi hành thì hàng tháng phải trả cho người được thi hành án tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Thanh T và bà Võ Thị Hồng H phải chịu 8.500.000 đồng (tám triệu năm trăm nghìn đồng).

Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn N số tiền 4.250.000 đồng (bốn triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp là theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0048340 ngày 02/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp Bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 21/2021/DS-ST ngày 22/04/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:21/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về